Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu “Ở Cô Tô, mặt trời lúc bình minh được ví như lòng đỏ trứng gà tự nhiên căng đầy”. Viết đoạn văn khoảng (5-7 câu) nêu ý nghĩa của hình ảnh so sánh đó hay nhất, giúp các em có thêm tư liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho kì thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
“Ở Cô Tô, mặt trời lúc bình minh được ví như một lòng đỏ trứng gà tự nhiên căng tròn”. Viết đoạn văn (5-7 câu) nêu ý nghĩa của hình ảnh so sánh
“Ở Cô Tô, mặt trời lúc bình minh được ví như một lòng đỏ trứng gà tự nhiên căng tròn”. Viết đoạn văn (5-7 câu) nêu ý nghĩa của hình ảnh so sánh – Mẫu 1
Trong văn bản “Cô Tô”, hình ảnh mặt trời thiên nhiên đã được tác giả miêu tả rất chân thực, sinh động và là hình ảnh đặc sắc nhất trong văn bản. Tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo để so sánh mặt trời trên đảo sau cơn bão với lòng đỏ trứng thiên nhiên căng mọng, tròn trịa. Hình ảnh mặt trời rực rỡ ấy hiện ra trên những đám mây bạc và những giọt nước mắt hồng như mâm lễ vật. Nhờ hình ảnh so sánh độc đáo và tài so sánh tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân mà hình ảnh ông mặt trời hiện lên thật chân thực, giàu sức biểu cảm và để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc. Người đọc có thể hình dung ra hình ảnh mặt trời không chỉ huy hoàng, rực rỡ mà còn tượng trưng cho cuộc sống yên bình, bình dị trên đảo Cô Tô thân yêu. Trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, hình ảnh mặt trời trên biển “Mặt trời lên màu biển mới” cũng nói lên vẻ huy hoàng của buổi bình minh trên biển. Tóm lại, nhờ hình ảnh so sánh mà hình ảnh mặt trời lúc bình minh trên đảo Cô Tô hiện lên thật sinh động, gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
“Ở Cô Tô, mặt trời lúc bình minh được ví như một lòng đỏ trứng gà tự nhiên căng tròn”. Viết đoạn văn (5-7 câu) nêu ý nghĩa của hình ảnh so sánh – Mẫu 2
Đoạn tả cảnh bình minh trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện qua các từ chỉ hình, màu sắc. So sánh mặt trời tròn trịa và tốt bụng với lòng đỏ của một quả trứng tự nhiên; quả trứng màu hồng đậm và trang nghiêm được đặt trên một chiếc đĩa bạc có đường kính rộng bằng những viên ngọc trai biển màu hồng; Cũng như mâm cỗ cúng… Qua sự chọn lọc từ ngữ chính xác, những hình ảnh so sánh trên thật rực rỡ, tráng lệ. Bằng tài quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh bình minh ở Cô Tô được hiện lên trong một khung cảnh bao la, rộng lớn, đồng thời thể hiện sự giao cảm vui tươi giữa con người và vũ trụ.
“Ở Cô Tô, mặt trời lúc bình minh được ví như một lòng đỏ trứng gà tự nhiên căng tròn”. Viết đoạn văn (5-7 câu) nêu ý nghĩa của hình ảnh so sánh – Mẫu 3
Trong đoạn trích Cô Tô, tác giả Nguyễn Tuân đã vô cùng tinh tế và sáng tạo khi so sánh hình ảnh mặt trời lúc rạng đông với quả trứng căng tròn. Hình ảnh so sánh ấy bắt nguồn từ sự giống nhau về hình dáng, màu sắc của ông mặt trời và lòng đỏ trứng gà. Độ căng tròn và sắc đỏ rực rỡ khiến người xem xao xuyến. Cách ví von của tác giả làm cho một khung cảnh thiên nhiên vốn bình thường, hiển nhiên vì nó diễn ra hàng ngày, lập tức trở nên đẹp đẽ, hấp dẫn. Hình ảnh mặt trời đỏ rực nhô lên trên mặt biển khiến người đọc thích thú, mê mẩn và tưởng tượng. Không những thế, phép so sánh ấy còn làm cho câu văn trở nên sinh động hấp dẫn, giàu sức gợi, gợi cảm hơn bao giờ hết. Chi tiết mặt trời lúc bình minh với lòng đỏ trứng gà tự nhiên thực sự là một so sánh đắt giá của tác phẩm Cô Tô.
“Ở Cô Tô, mặt trời lúc bình minh được ví như một lòng đỏ trứng gà tự nhiên căng tròn”. Viết đoạn văn (5-7 câu) nêu ý nghĩa của hình ảnh so sánh – Mẫu 4
Đoạn trích Cô Tô là một áng văn mà tác giả Nguyễn Tuân đặc biệt ưu ái với biện pháp tu từ so sánh. Trong đó, nổi bật nhất là cách mặt trời lúc bình minh giống như một lòng đỏ trứng tự nhiên căng đầy. Mặt trời mọc mỗi ngày một lần, chẳng có gì mới lạ, bởi cái gì thấy nhiều quá cũng dễ trở thành bình thường. Vậy mà trong mắt Nguyễn Tuân, hình ảnh ấy rực rỡ, tươi tắn và hấp dẫn lạ lùng. Sự tròn trịa, đỏ tươi, bề thế và đồ sộ của quả trứng được mẹ thiên nhiên ấp ủ khiến anh ngây ngất, mê đắm. Cảm xúc ấy được tác giả khéo léo lồng ghép vào hình ảnh so sánh, giúp người đọc cảm nhận được một cảnh thiên nhiên kì vĩ với một góc nhìn mới. Đồng thời, hình ảnh so sánh ấy còn làm cho câu văn mượt mà, hấp dẫn và trữ tình hơn. Đây thực sự là một phép so sánh thành công và mang tính biểu tượng với mặt trời mọc sau này trong nền văn học.
Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
– Nguyễn Tuân (1910-1987).
– Sinh ra tại Hà Nội
– Ông là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về tiểu luận, truyện ngắn và ký.
– Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996
– Phong cách sáng tác: phong cách độc đáo, tài hoa, giàu hiểu biết nhiều mặt, ngôn ngữ phong phú, điêu luyện
– Công trình tiêu biểu: Ngày xửa ngày xưa (Tuyển tập truyện ngắn), Sông Đà (bút tùy chỉnh)
2. Tác phẩm
1. Thể loại: Dấu hiệu
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
– “Cô Tô” được viết trong dịp nhà văn ra đảo.
– Bút tích được in trong sách Kí, xuất bản lần đầu năm 1976.
3. Phương thức biểu đạt: Mô tả, tự truyện,…
4. Người kể chuyện: Ngôi thứ nhất, “tôi”
5. Tóm tắt:
Đoạn trích “Cô Tô” trích trong tác phẩm “Cô Tô” của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác giả quan sát và cảm nhận cơn bão bằng các giác quan. Cơn bão như một kẻ thù dàn trận để hạ gục con người. Sau cơn bão, quần đảo Cô Tô trở nên rõ ràng hơn. Cây xanh hơn, nước biển trong hơn, cát giòn hơn, cá nhiều hơn. Mặt trời mọc giống như bên trong quả trứng. Khung cảnh bình minh trên biển thật tráng lệ và hùng vĩ. Bên giếng nước ngọt đảo Thanh Luân, người dân tất bật gánh nước chuẩn bị cho chuyến ra khơi.
6. Bố cục:
Gồm 4 phần:
+ Phần 1 (từ đầu đến “ác, thần”): Cảnh bão ở Cô Tô.
+ Phần 2 (tiếp “Ở đây lớn lên cùng sóng”): Khung cảnh Cô Tô sau bão
+ Phần 3 (tiếp theo “nó sải cánh…”): Cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô
+ Phần 4 (còn lại): Cảnh sinh hoạt buổi sáng của người dân đảo Cô Tô
7. Giá trị nội dung:
+ Cảnh thiên nhiên và hoạt động của con người trên đảo Cô Tô hiện lên thật trong lành và tươi đẹp. Bài văn cho chúng ta thêm hiểu và thêm yêu một vùng đất của Tổ quốc – quần đảo Cô Tô.
8. Giá trị nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ điêu luyện, độc đáo
+ Miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh, cảm xúc
+ Sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, v.v.