Huy Cận ông thuộc thế hệ của những nhà thơ nổi tiểng trong phong trào thơ mới.Thơ Huy Cận được nhiều người nhận xét mang nỗi buồn nhân thế. Huy Cận sáng tác bài thơ Tràng Giang để lại tác phẩm điển hình cho hồn thơ Huy Cận. Khổ thơ đầu tiên trong bài thơ miêu tả cảnh sông nước của dòng sông Hồng, qua đó bộc lộ nỗi buồn của người thi sĩ trong khung cảnh thiên nhiên đó.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Những câu thơ mở đầu đầy cảm xúc thể hiện nỗi buồn của thi sĩ trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Đọc câu thơ người đọc sẽ mường tượng ra cảnh con sông rộng lớn không chỉ dài mà còn sâu. Cụm từ “tràng giang” cho thấy được dòng sông dài vô tận. Cụm từ “điệp điệp” thể hiện được quy luật thiên nhiên sóng sau xô sóng trước tràn vào bờ. Những câu thơ đầu tiên là nỗi buồn, đa sầu đa cảm của thi nhân, những con sóng như được nhân hóa lên thành nỗi buồn của con người, mỗi con sóng xô vào bờ là một nỗi buồn, cứ thế liên tiếp nhau mà không có dấu hiệu chấm dứt.
Giữa con sông đó xuất hiện con thuyền, hình ảnh thực sự đối lập nhau giữa thiên nhiên bao la và con thuyền lại nhỏ bé. “Con thuyền” chính là hình ảnh tả thực, dưới góc độ của tác giả nhìn con thuyền như thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người lênh đênh trên sóng nước cuộc đời. Tác giả sử dụng hình ảnh con thuyền cổ điển trong thơ ca kết hợp với điệp từ “song song” mang lại nỗi buồn sâu thẳm.
Câu thơ thứ 3 trong khổ thơ đầu còn mang lại cảm giác chia lìa cho người đọc. Thuyền và nước hai hình ảnh gắn bó khăn khít với nhau nhưng giờ đây phải xa cách. Hình ảnh nước trong câu thơ ám chỉ con người, nước cũng cảm xúc biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác nỗi buồn trải dài khắp không gian trăm ngả.Con thuyền cứ mãi lênh đênh để lại dòng nước lặng im thăm thẳm.
Câu thơ cuối trong khổ thơ đầu tác giả mang đến cho người đọc hình ảnh lạ, lạ so với các nhà thơ khác đó là hình ảnh “củi khô”. Câu thơ cuối mang giá trị gợi hình cao, chiếc củi khô thiếu sức sống và nhỏ bé đang trôi trên sông cô đơn, lạc lõng. Cụm từ “lạc mấy dòng” như muốn nói cành củi khô vốn bé nhỏ lại bị chia rẽ khắp mấy dòng sông. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “ một cành củi khô” mà viết “củi một cành khô” cùng nhịp thơ 1/3/3 khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô cũng như thân phận nhỏ nhoi bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời không biết bến bờ.
Tràng giang một bài thơ có mở đầu rất buồn, cảm xúc, các hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn tác giả đều không có sức sống, cũng như chính tâm trạng buồn man mác, nỗi sầu kiếp người của chính nhà thơ.
Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà con là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là một bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình.
Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm 19 Đúng như nhà thơ Huy Cận từng nói, bài thơ này được sông Hồng, quãng Chèm Vẽ và những con sông khác gợi tứ. nhưng nó là bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ thơ đầu.
Trước hết ta chú ý đầu đề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang”, để ta không lầm với sông Trường Giang (Trung Quốc), hay con sông dài nói chung. Trong Tiếng Việt “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận mà trống rỗng khiến người ta chán chường.
Mở đầu bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ, tuy rất nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thuở. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau chứ không gắn bó với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngã nào? Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào các vật nhỏ: sóng, thuyền, củi khô.
Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gãy, khô xác của thân cây.
Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồm, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 8
Nhắc tới những sáng tác trước cách mạng của nhà thơ Huy Cận không thể không nói tới bài thơ Tràng Giang. Đây là bài thơ được tác giả viết vào thời điểm năm 2939, khi ông còn đang là sinh viên. Huy cận đứng ở bờ nam để ngắm sông Hồng mênh mông rộng lớn với biết bao nỗi niềm xúc động. Từ những cảm nhận đó tác giả đã viết nên bài thơ này.
Trước tiên người đọc chú ý đến nhan đề của bài thơ. Như chúng ta đã biết thì nhan đề là kết tinh cho toàn bài thơ, là điểm chú ý đầu tiên của người đọc khi tiếp xúc với bài thơ. Nhan đề còn có nhiệm vụ tạo nên hứng thú cho người đọc, người nghe, gợi sự tò mò, tìm hiểu của mọi người. Huy Cận sử dụng từ “Tràng Giang” trong đó “tràng” có nghĩa giống với từ “trường” tức là dài, còn “giang” là dòng sông. Cả từ “Tràng giang” có nghĩa là sông dài. Huy Cận không sử dụng từ “Trường Giang” để đặt cho bài thơ mà sử dụng “Tràng giang” để diễn tả về một con sông dài, rộng chính là có dụng ý riêng của tác giả. Tràng giang được tạo thành bởi vần “ang” khiến cho nhan đề như truyền tải được sự dài rộng của dòng sông.
Mở đầu bài thơ là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chính lời đề từ đã khái quát nên nội dung và cảm hứng, tâm hồn của nhà thơ. Cảm xúc của bài thơ đó chính là nỗi buồn sâu lắng và được thể hiện qua từ “bâng khuâng”. Một nỗi buồn man mác, không rõ nguyên nhân nhưng lại da diết và khôn nguôi. Tâm trạng ấy được hình thành khi nhà thơ đứng trước không gian “trời rộng, sông dài”. Con người khi đứng trước không gian ấy càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi.
Ngay ở khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang thì nội dung cũng như cái tôi được tác giả thể hiện rất rõ ràng:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Nhắc đến sông nước, đứng trước dòng sông mênh mông, rộng lớn thì người ta không thể nào không nhắc tới những con sóng. Ở ngay câu thơ đầu tiên nhà thơ đã nhắc đến con sóng giống như mang theo tâm trạng, cảm xúc. Từ “Tràng giang” lại một lần nữa được nhắc đến. Nhà thơ dùng từ “Tràng” thay bởi từ “trường” chính là để phân biệt với con sông Trường Giang của Trung Quốc. Giống với ý nghĩa của phần nhan đề thì từ “trường giang” gây cảm giác về một không gian rộng lớn, bất tận. Giữa những con sóng, đứng trước không gian rộng lớn ấy chính là hình ảnh của nhân vật trữ tình. Mặc dù không được nhắc đến trực tiếp nhưng chúng ta vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của tác giả. Sự lẻ loi nhưng con sóng nhỏ giữa mặt nước mênh mông, nó trở nên cô độc và như mang trong mình nỗi “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn như vô tận, kéo dài mãi.
Đến câu thơ thứ hai tác giả đã có sự di chuyển điểm nhìn từ cái nhìn xa, bao quát đến một điểm nhìn cụ thể:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Vốn tưởng sự xuất hiện của con thuyền sẽ mang đến cảm nhận về sự sống của con người nhưng trái lại càng thêm nỗi buồn thê lương. Con thuyền thì nhỏ nhoi, đơn độc đối lập hẳn với sự mênh mông của “tràng giang”. Càng thêm phảng phất nỗi buồn khi mà con thuyền rơi vào trạng thái “xuôi mái”, xuôi một cách buông bỏ cho dòng nước đẩy đưa. Huy Cận đã dùng nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Con thuyền tưởng như đang chuyển động nhưng thực chất chỉ bất động và chịu ảnh hưởng của con sóng, dòng nước.
Câu thơ thứ ba hai hình ảnh thuyền và dòng sông lại được sóng đôi cùng nhau:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Con thuyền giống như đang phá vỡ quy luật của bình thường, Thuyền “xuôi mái” tức là xuôi theo dòng nước ấy bậy mà lại có sự vận động “về – lại”. Vốn chảy cùng chiều nhau nhưng đến câu ba lại có sự ngược chiều. Sự phi logic trong câu thơ giống như sự lo âu, lạc lõng, trăn trở của chính tác giả. Khổ thơ đầu tiên kết lại bằng một hình ảnh thơ rất lạ:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Nhành củi là hình ảnh rất quen thuộc, gần gũi nhưng nó ít khi được đưa vào trong thơ ca. Nhà thơ Huy Cận đã phá vỡ những quy tắc để lấy hình ảnh nhành củi khô trên nền thiên nhiên rộng lớn, kì vĩ. Cành củi nhỏ bé, đơn độc lạc giữa dòng nước giống như chính nhà thơ đang phải chịu đựng sự cô đơn, lạc lõng. Nó biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé, phù du trôi nổi giữa dòng đời vô định.
Có thể nói với những hình ảnh độc đáo, tả cảnh ngụ tình tác giả đã vẽ nên bức tranh thủy mặc về cảnh sông nước. Qua khổ thơ thứ nhất ta có thể cảm nhận được nỗi buồn được thấm đẫm trong từng cảnh vật.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 9
Đọc “Tràng giang”, chẳng ai có thể phủ nhận danh hiệu nhà thơ “buồn” nhất trong văn học hiện đại Việt Nam. Nỗi buồn cố hữu trong tâm hồn cùng với cảm giác lạc lõng trong cảnh đất nước mất chủ quyền mà Huy Cận đã viết lên bài thơ “Tràng giang” sau những chiều dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Nỗi lòng ấy, cái tôi ấy được thể hiện rõ ràng nhất trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Huy Cận là một trong những cái tôi phong cách nổi bật trong phong trào thơ Mới 1930-1945. Thơ Huy Cận mang nỗi buồn hoài cổ ngàn năm cùng nhiều sáng tạo mới mẻ. Bài thơ “Tràng giang” là thành công lớn trong sự nghiệp thơ ca Huy Cận trước Cách mạng. Trong đó, khổ thơ đầu tiên là khái quát không gian sông nước mênh mông từ điểm nhìn mặt sông.
Đọc khổ thơ đầu tiên mà bỗng rùng mình rợn ngợp một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng mà ở đó 4 nốt trầm ngân lên gồm sóng, thuyền, nước và cành củi.
Từ câu thơ mở đầu, người ta đã thấy nỗi buồn dằng dặc:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Tác giả dùng từ “tràng giang” như nhãn tự, điểm mấu chốt xuyên suốt bài thơ. Dùng từ Hán Việt “tràng giang” vừa để phân biệt với con sông Trường Giang (Trung Quốc) vừa lấy âm “a” và điệp “ang” gợi tả không gian rộng mênh mông, dài bất tận và sâu ngút ngàn. Giữa con sông rộng ấy có một chuyển động rất nhỏ rất tinh – “gợn”. Một con sóng nhỏ bé, chuyển động giữa ngợp trời biển rộng hẳn cô độc lắm, cô độc nên nó mới mang trong mình nỗi buồn lớn khủng khiếp, “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn như gấp lên ngàn vạn lần cùng từ láy “điệp điệp”.
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Câu thơ thứ hai, tác giả chuyển tới điểm nhìn con thuyền. Tưởng chừng như thuyền sẽ mang đến chút hơi thở sự sống. Song, Huy Cận chỉ thấy nỗi buồn thê lương hơn khi thuyền rơi vào trạng thái “xuôi mái”, buông bỏ, phó mặc. Con thuyền không mục đích, không phương hướng. Như vậy, cũng như hình ảnh sóng trên, hình ảnh thuyền cũng là bút pháp lấy động tả tĩnh. Tưởng như sóng như thuyền đang vận động, song thực tế lại hoàn toàn bất động.
Câu thơ thứ ba có lối cấu trúc vận động khá đặc biệt:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh thuyền và nước dường như phá vỡ quy luật thường tình. Nước chảy thuyền trôi. Một con thuyền đang xuôi mái tất yếu sẽ di chuyển theo hướng nước chảy. Thế nhưng, hai thực thể vốn vận động cùng chiều này lại đối lập “về” – “lại”. Tuy vậy, sự phi logic trong tự nhiên lại rất có lí trong vận động tâm trạng tác giả. Tâm hồn đầy lo âu, mặc cảm, lạc lõng kia có thể nào thấy được cảnh tượng thiên nhiên hòa hợp, sum vầy?
Nếu như ba câu thơ đầu toàn là những thứ quen thuộc như sóng, thuyền, nước thì câu thơ cuối lại xuất hiện hình ảnh rất lạ:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Văn học trung đại trước đó nói đến nào là “tùng cúc trúc mai”, nào “long ly quy phượng”, còn Huy Cận? Huy Cận đề cập một từ “củi” mà như phá vỡ mọi quy luật, mọi khuôn mẫu phép tắc nền thi ca trước đó để rồi dẫn đường cho cái tôi độc đáo, sáng tạo.
Câu thơ sử dụng nghệ thuật đảo trật tự cú pháp, thay vì “một cành củi khô”, Huy Cận đã đảo toàn bộ trật tự thành “củi một cành khô”.
Về nội dung, câu thơ hội tụ mọi nỗi cô đơn, ảo não, buồn tủi của một kiếp hồng nhan lo lắng về dòng đời bất trắc. “Củi”, “khô” là vật chết. “một cành” là đơn độc. “lạc mấy dòng” – sự lạc lõng, chơi vơi. Tất cả những gì hiện diện trong câu thơ là chết chóc, chán chường, cô độc, bất lực trước dòng đời.
Như vậy, những hình ảnh vừa quen vừa lạ, giàu hàm súc, giàu sức gợi cùng cách gieo vần, điệp âm và sử dụng các từ láy “điệp điệp”, “song song” mà khổ thơ hội tụ mọi đặc trưng của nền thơ ca hiện đại. Mặt khác, phân tích khổ đầu bài thơ Tràng giang ta cũng thấy được cái tôi Huy Cận buồn “ảo não”, đầy hoài cổ cho thấy chân dung một trí thức đa sầu đa mang, yêu thiên nhiên và yêu quê hương sâu sắc. Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận xứng đáng đưa nhà thơ trở thành “đỉnh cao” thơ Mới.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 10
Huy Cận là nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ mới. Thơ của ông thường mang đậm nỗi buồn da diết, sâu thẳm của nhân thế thời bấy giờ. Đoạn 1 bài thơ Tràng Giang thể hiện rõ nhất.
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, buồn trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Bài thơ Tràng Giang được Huy Cận cho ra đời vào chiều thu, khi ông đứng lặng mình bên bờ sông Hồng. Vừa bước vào bài, nhà thơ đã vội vã miêu tả cảnh sông nước vắng lặng, mệnh manh như chính nỗi buồn tác giả cảm được trước không gian vô tận.
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”
Chỉ vừa đọc câu thơ, người đọc đã liên tưởng ngay đến con sông rộng lớn mênh mông nước nhưng chẳng có nổi một bóng người tạo vui. Nỗi buồn càng nhân lên khi tác giả dụng ý dùng từ “Tràng giang” thay “trường giang”. Điều đó khiến dòng sông không chỉ có chiều rộng, dài mà còn có chiều sâu.
Cụm từ “buồn điệp điệp” được mô tả cho những con sóng dồn dập, thi nhau liên tiếp xô vào bờ. Những con sóng mang theo nỗi buồn của thi nhân cũng vì vậy được nhân hóa lên thêm nhiều. Nỗi buồn đang trải dài vô tận và chẳng biết trước bao giờ kết thúc, tựa như sóng con này đến con khác xô vào bờ.
Bên cạnh không gian đìu hiu bên dòng sông, con thuyền bé xuất hiện thông qua câu thơ:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền bỗng hiện lên bé nhỏ, lênh đênh. Người đọc không thể nhận biết con thuyền xuất hiện là thực hay chỉ trong ý nghĩ của thi ca. Bởi với cái nhìn đượm buồn nhưng đầy lãng mạn Huy Cận đã dệt nên con thuyền để biểu thị thân phận nhỏ bé, trôi nổi của một kíp người.
Con thuyền không còn xa lạ trong làng thơ ca Việt. Tuy nhiên, con thuyền xuôi mái nước song song chỉ có ở Huy Cận. Từ “song song” xuất hiện không chỉ thực hiện nhiệm vụ tạo tiếng thở dài như tiếng lòng đang dâng lên của nhà thơ, bên cạnh đó còn tạo độ nhịp nhàng cho câu thơ.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Sự chia lìa được nhà thơ đưa ra thể hiện cho sự xa cách giữa thuyền và nước. Tính từ nhân hóa “sầu trăm ngả” được sử dụng giúp người đọc cảm nhận được nỗi buồn da diết hơn của nước khi thuyền dần khuất. Điều này cũng giúp người đọc phần nào đó hình dung được sự lặng lẽ và heo hút của không gian này.
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình ảnh độc đáo được Huy Cận đưa ra. Cành củi nhỏ bé trở nên lạc lõng giữa dòng nước lớn tựa như thân phận nhỏ nhoi của con người bị chiến tranh vùi dập, lênh đênh trên dòng đời vô định.
Chỉ với những hình ảnh của sóng, thuyền, nước và củi đã mang đến cho người đọc một khổ thơ tuyệt vời dưới những vần điệu do Huy Cận tạo nên. Những hình ảnh tuy đơn điều nhưng trở nên ý nghĩa với lối văn hiện đại kết hợp cùng các biện pháp tu từ hấp dẫn. Bức tranh đẹp nhưng buồn đã điểm tô được thân phận con người trong thời đại bấy giờ.
Phân tích khổ đầu bài thơ Tràng Giang đã giúp người đọc nhận ra sự tài tình của nhà thơ Huy Cận. Đồng thời, phản ánh được tình yêu quê hương sâu sắc của ông. Vì vậy, chẳng phải dĩ nhiên Xuân Diệu đã rằng:
“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sau mưa
Cùng đất nước nặng buồn sông núi”
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 11
Nếu như Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Đọc Tràng giang, chẳng ai có thể phủ nhận rằng Huy Cận chính là nhà thơ buồn nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Nỗi buồn cố hữu trong tâm hồn cùng với cảm giác lạc lõng trong cảnh đất nước mất chủ quyền mà ông đã viết lên bài thơ Tràng giang sau những chiều dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Nỗi lòng ấy, cái tôi ấy được thể hiện rõ ràng nhất trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào thơ Mới 1939-1945, thơ ông mang một nét đặc sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Ông làm thơ từ năm 1934, đăng thơ từ năm 1936 và có nhiều tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Lửa thiêng (1940), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),…Tràng giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập Lửa thiêng.
Ngay từ khổ đầu tiên, Huy Cận đã mở ra trước mắt đọc giả cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Cảnh và tình người được thể hiện song song trong từng câu thơ. Con sóng trên mặt nước sông Tràng giang gờn gợn nhẹ nhàng không dứt cũng như nỗi buồn của con người cứ dào dạt đến hết đợt này lại đợt khác. Một nỗi buồn “ điệp điệp “ day dứt lòng người. Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt điệp điệp. Dư ba của dòng sông gợi những xao xuyến trong lòng người; nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những gợn sóng trên sông triền miên, vô tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong lòng người, nhẹ nhàng mà mênh mang không dứt. Câu thơ của Huy Cận nhấn mạnh tương quan về sắc thái: sóng gợn miên man vô tận cũng như nỗi buồn điệp điệp triền miên da diết khôn nguôi…Còn con thuyền trên sông, nó không phải được chèo lái mà là “ xuôi mái “ tự mình thả trôi theo dòng nước gợi lên sự lênh đênh trôi dạt phó mặc cho dòng nước chảy. Hình ảnh con thuyền đó gợi lên kiếp người nhỏ bé đơn côi với cuộc đời vô định của mình.
Giữa Tràng giang điểm nhìn của tác giả hướng vào con sóng nhỏ gợn trên mặt nước. Sóng tuy rất nhiều nhưng chúng hiện ra rồi lại tan biến vào hư vô mãi mãi như thời gian trôi qua không lấy lại được. Từ xưa tới nay thuyền và nước là hai hình ảnh luôn luôn gắn bó không thể tách rời nhau. Vậy mà giờ thuyền với nước chỉ song song nhau thôi chứ không phải gắn bó lâu dài đi cùng nhau hết đoạn đường sông dài vô tận. Bởi vì nước xuôi trăm ngả thuyền biết theo lối nào. Thuyền – nước như hai đường thẳng song song phân cách nhau không bao giờ có điểm chung mà gặp gỡ, điều này dễ khiến ta liên tưởng đến cảnh chia ly , biệt ly giữa thuyền và con nước chảy bên dưới:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Câu cuối của khổ thơ Huy Cận đã mượn hình ảnh con thuyền cô độc một mình thả trôi trên sông để bộc lộ sự lạc lõng cô đơn, đó đã là một cách sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sâu sắc thế nhưng đọc đến câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng “ ta mới tận hưởng rõ nét cái tài, cái hay trong thơ của ông. Như nỗi buồn sầu cô đơn ngày càng ăn sâu vào tâm trí nhà thơ mà cái đơn độc nay còn được nhấn mạnh hơn ở sự nhỏ bé giảm dần của sự vật được đưa vào bài thơ. Giữa một dòng sông rộng lớn duy chỉ có con thuyền thôi đã thấy nhỏ nhoi, lạc loài giữa chốn sông nước, nay chỉ có độc một cành củi khô thì nghe sao thật bé nhỏ đến đáng thương.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 12
Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà “Tràng giang” ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ 1 bài Tràng giang.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Khổ một trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận đã gợi lên bao nỗi niềm của con người trước cảnh sông dài, trời rộng.
Trước mắt ta hiện lên hình ảnh dòng trường giang mênh mông. Huy Cận không gọi đó là trường giang mà gọi là tràng giang. Những âm “ang” đi liền với nhau đã biểu hiện, tạo nên cảm nhận về những lớp sóng cùng những gì là mênh mông, bát ngát,trải dài.Trê dòng trường giang ấgợn lên những lớp sóng nối tiếp bất tận.Những từ láy:”điệp điệp, song song” cũng góp phần tạo nên cái trạng thái dập dềnh của sóng nước.Từ hoàn cảnh ra đời của tác phẩm,ta biết dòng tràng giang mà Huy Cận nói đến là dòng sông Hồng. Câu thơ:” Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” đã thể hiện được nỗi sầu khôn tả của thi sĩ. Đó là nỗi buồn trải dài bất tận như những lớp sóng điệp điệp, nối tiếp; là nỗi buồn chồng chất, tầng tầng, lớp lớp . Ngay câu thơ này, tạo vật và tâm tình đã có sự gắn quyện.Điều đó sẽ được thể hiện trong suốt cả tác phẩm.
Trên dòng trường giang hiện lên hình ảnh con thuyền xuôi mái khiến ta có bao cảm nhận khác nhau. Đó chính là con thuyền lênh đênh, trôi dạt, con thuyền buông xuôi mái chèo để măc cho dòng nước cuốn trôi. Ta cũng có thể hiểu câu thơ theo nghĩa: đó là con thuyền bất lực trước dòng nước, trước sức mạnh của thiên nhiên. Với 2 cách hiểu ấy,ta vẫn có một cảm nhận rất chung:hình tượng thơ đã gợi một cảm xúc buồn thương da diết khi ta nghĩ đến những kiếp người trôi nổi, phiêu dạt trong dòng đời. Trong xã hội cũ, thuyền luôn luôn hướng về bến. Nhưng nếu có một bến đợi nào đó thì với con thuyền đo cũng chỉ là một bến bờ cô liêu mà thôi.
Thuyền và nước vốn gắn bó, thế mà ở đây:”thuyền về nước lại”. Thuyền và nước lại có sự chia li, cách xa. Trong câu thơ trước, tác giả nói đến nỗi buồn điệp điệp,còn ở đây lại là nỗi “sầu trăm ngả”. Như vậy đã có sự tăng tiến trong tâm tư của tác giả.Nỗi buồn không chỉ còn ở chiều sâu, bề sâu mà đã trải rộng đến trăm ngả. Dòng trường giang, dòng sông Hồng ấy đã trở thành một dòng sầu cuồn cuộn. Lời thơ khiến ta ngỡ như có một dòng sầu thảm trong tâm tư tuôn chảy hòa cùng dòng sông mênh mang. Ta chỉ còn nghe thấy tiếng nước hay là tiếng sầu đang nức nở, triền miên. Tình đã hoaf nhập với cảnh một cách trọn vẹn.
Hình ảnh con thuyền xuôi mái bao quanh là những lớp sóng, là nỗi buồn, nỗi sầu trăm ngả khiến ta nhớ đến những câu thơ của Xuân Diệu:” Tôi là con nai nhỏ bị chiều giăng lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”
Sự tương đồng của những hình ảnh thơ cho ta một ý niệm khái quát về nỗi niềm của cả một thế hệ trước cách mạng. Đúng như Huy Cận đã khẳng định: chungs tôi lúc đó có cả một nỗi buồn thời đại vì bế tắc không tìm ra lối đi nên nó cứ kéo dài triền miên
Đến câu thơ” Củi một cành khô lạc mấy dòng ” ta lại có thêm những nỗi niềm. Nếu 3 câu thơ đầu có sự đăng đối trong hơi thở cổ điển thì đến câu này ta lại thấy một cành củi khô mà Xuân Diệu Đã từng nhận xét: nét hiện thực, thực tế nôm na đến sống sít. Nhưng Huy Cận đã không viết câu thơ này một cách ngẫu nhiên, đã có sự cân nhắc , lựa chọn vô cùng kĩ lưỡng. Sau khi lược bỏ nhiều câu thơ, tác giả đã chọn câu này. Đây đúng là một câu thơ đã gợi ra những cảm nhận phong phú. Từ một cành cây xanh tươi nơ núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô bập bềnh trôi nổi, thân phận cỏ cây đã qua nhiều thương đau. Điều đó khiến ta càng nghĩ đến những thân phận trôi nổi, bị vùi dập, càng thêm cảm thương những kiếp người. Hình ảnh cành củi khô giữa dòng trường giang ấy còn tạo nên sự tương quan đối lập đặc sắc. Đó là sự tương quan giữa cành củi với dòng sông mênh mông.Cùng với sự tương phản ấy, ta còn thấy hình tượng thơ gợi một ý niệm về mối quan hệ giữa con người với cả vũ trụ,không gian.
Dòng sông càng mênh mông vời vợi, con người càng nhỏ bé đơn côi. Chính điều này đã khiến ta có cảm giác rờn rợn như chính nỗi lòng của tác giả.
Nhìn chung nỗi buồn là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 13
Huy Cận được mọi người biết đến là nhà thơ của phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông hầu như ca ngợi về vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa nỗi sầu của thế gian. Trong tất cả các tác phẩm, Tràng Giang được đánh giá cao về nội dung lẫn nghệ thuật.
Bài thơ được ông sáng tác vào năm 1939 khi đứng ở bờ Nam Bến Chèm và ngắm sông Hồng. Có thể nói, chính cảnh vật nơi đây đã khơi gợi nguồn cảm hứng bất tận trong ông.
Khổ 1 tuy chỉ có vài câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện rõ được bức tranh sông nước mênh mông cùng với tâm tình của người thi sĩ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ đậm chất cổ thi. Cảnh vật thiên nhiên được khắc họa qua tâm hồn của người thi sĩ trở nên mới lạ và độc đáo hơn. Bức tranh thủy mặc hiện lên vô cùng đẹp với hình ảnh sóng gợn và thuyền xuôi. Con sóng chỉ gợn nhẹ nhưng cứ “điệp điệp” mãi không thôi. Nhờ sóng mà con thuyền cứ mãi xuôi theo dòng nước. Trong 2 câu thơ này, tác giả còn sử dụng từ láy để làm gia tăng nhịp điệu cho lời thơ. Cách dùng từ của nhà thơ khá độc đáo mang đến điểm mới trong văn chương.
Bức tranh sông nước hiện lên vô cùng đẹp qua lời thơ của tác giả. Thế nhưng, tâm hồn con người lại ẩn chứa nỗi buồn sâu lắng. Do sự tác động ấy mà khi đọc hai câu thơ đầu, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn man mác được thể hiện qua từ ngữ. Sông nước mênh mông là thế nhưng con người mãi chỉ là sinh vật nhỏ bé chẳng giữa đất trời.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh thuyền và nước sau khi được song song với nhau thì lại bị tách ra. Đây chính là sự xa cách giữa muôn trùng khơi. Hình ảnh ấy đã được nhân hóa khiến để gia tăng cảm xúc. Cụm từ “sầu trăm ngả” đã mang đến cho người đọc cảm giác buồn vô tận. Nỗi buồn ấy dường như đã lan tỏa ra khắp không gian. Đọc câu thơ, chúng ta sẽ hình dung được cảnh con thuyền lênh đênh vô tận giữa dòng nước bao la. Hình ảnh thuyền và sông đối lập nhau đã làm rõ rệt hơn nỗi buồn da diết của người thi sĩ.
Chưa dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” điểm xuyết vào khung cảnh sông nước ấy. Chính yếu tố này đã khiến cho sự lẻ loi của con người giữa trời đất rộng lớn. Cành củi còn bị “khô” thể hiện sự thiếu sức sống của con người. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng phép đảo ngữ cho cụm từ “củi một cành khô” cùng với nhịp thơ 1/3/3 để nhấn mạnh thân phận con người bị vùi dập. Đứng trước khung cảnh ấy, người thi sĩ cảm thấy nỗi buồn man mác. Ông buồn cho thân phận của con người, nghĩ về dòng đời lênh đênh, trôi nổi. Kiếp người vốn có nhiều sự thay đổi nhưng chẳng ai biết trước được điều gì. Con người luôn cô độc, lẻ loi và chơi vơi giữa dòng đời mà chẳng biết đi về đâu.
Nỗi buồn của thi sĩ khi đứng trước dòng đời bao la
Qua khổ thơ 1 bài Tràng Giang, chúng ta đã phần nào thấy rõ được sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhà thơ giữa bút pháp hiện đại và cổ điển. Nhờ đó mà lời thơ gần gũi nhưng vẫn tác động mạnh mẽ vào lòng người đọc. Thêm vào đó là cách đặt nhan đề độc đáo theo kiểu tả cảnh ngụ tình.
Thêm vào đó, sự xuất hiện của những từ láy trong khổ 1 còn mang lại nhiều giá trị biểu cảm. Thông qua đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sự heo hút và mênh mông của dòng sông Hồng và sự nhỏ bé của con người trong khung cảnh ấy.
Ngoài ra, Huy Cận còn thành công trong việc sử dụng hình ảnh độc đáo. Có thể bạn chẳng thể bắt gặp được hình ảnh “củi một cành khô” trong thơ văn Việt Nam. Chính sự mới mẻ này đã tạo nên điểm nhấn ấn tượng nâng cao giá trị của tác phẩm.
Phân tích khổ 1 bài Tràng Giang, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn xuyên suốt cả đoạn. Tất cả các hình ảnh được nhắc đến mặc dù gần gũi nhưng lại hiện lên rất buồn và không có sức sống dưới ngòi bút của Huy cận. Bởi vì, tâm hồn đang ẩn chứa nỗi buồn nên thơ văn và cảnh vật hiện lên trông rất ảm đạm.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 14
Có biết bao thi sĩ nhà thơ đã mượn thiên nhiên để giãi bày lòng mình. Nỗi buồn của con người thì vô vàn biết bao : buồn tình yêu, buồn tình bạn, buồn chốn sự nghiệp, còn nỗi buồn của Huy Cận cũng như bao người. Buồn vì ta chưa thể tìm ra con đường đi cho cuộc đời, cho kiếp người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
Ngay từ đầu bài thơ, độc giả đã bắt gặp những con sóng đầy tâm tư:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Trong thơ Xuân Quỳnh, bà cũng dùng hình ảnh của sóng để diễn tả nỗi buồn của thuyền và biển. Dường như “sóng” là gia vị hay chất xúc tác dẫn đến những cung bậc cảm xúc của đời người. Hai từ láy “điệp điệp”, “song song” ở cuối câu thơ mang hơi hướng cổ kính của Đường thi.
Nó khiến cho tâm trạng người đọc cũng trải dài, mênh mang theo dòng chảy của con sông dài vạn dặm ấy. Những con sóng gối đầu lên nhau, loang xa, dập dềnh theo dòng nước. Mặc cho dòng nước chảy về nơi nào, sóng cứ vỗ về mênh mang.
Trên dòng sông ấy, độc cô “con thuyền” xuôi theo dòng nước, tựa như sự buông thả, bất cần chẳng cần quan tâm tới điểm đến. Cái tài viết thơ của Huy Cận thật đáng ngưỡng mộ, bằng từ ngữ thơ ông lại lột tả nên sự chuyển động của “sóng”, của “thuyền”, nhưng lại khiến cho người đọc không tránh khỏi có chút cảm giác lặng lẽ, cô độc trước thiên nhiên.
Tiếp nối dòng chảy cảm xúc ấy, Huy Cận đã viết:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Mới đây thôi ta còn nhìn thấy thuyền xuôi theo dòng nước. Theo lẽ đời, thuyền và nước nào có thể tách rời, thuyền đi đâu về đâu là nhờ có nước xuôi dòng, vỗ về. Thế mà Huy Cận lại cảm nhận được thuyền và nước đang cách xa, không chung đường. Từ “lại” khiến cho câu thơ nghe có chút tiếc nuối, nhớ mong xót xa.
Chính vì lẽ đó là khiến cho lòng người không tránh khỏi cảm giác “sầu” bi. Nhà thơ sử dụng cả từ chỉ lượng “trăm” để đong đếm cho nỗi tiếc thương vô hạn ấy. Cho đời biết rằng ta chẳng bao giờ mong cho giờ phút thuyền và nước phải chia lìa.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ, khéo léo nhất qua câu thơ:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Một con thuyền, một cành củi khô đã càng làm nổi bật lên nỗi cô đơn lạc lõng. Tựa như chỉ có mình nhà thơ đang đối diện với vũ trụ thiên nhiên kia. Nhưng cành củi ấy lại khô héo, thiếu sự sống biết nhường nào.
Nó chẳng giống như cảnh vật tràn đầy sức sống của “Một bông hoa tím biếc” của Thanh Hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”. “Cành khô” ấy mang nỗi sầu vô định của thi nhân, chỉ có thể trôi nổi, bập bềnh theo dòng nước mênh mang mà chẳng có một định hướng.
Phân tích khổ 1 bài thơ Tràng giang có thể thấy rõ tài năng “tả cảnh ngụ tình” của Huy Cận thật tài hoa, khéo léo. Chỉ thông qua những hình ảnh giản đơn, “con sóng”, “chiếc thuyền”, “cành khô” mà ta dễ dàng bắt gặp trong biết bao bài thơ khác, nhưng trong thơ của Huy Cận nó có thể truyền tải mạnh mẽ những cảm xúc rất riêng.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 15
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của “đêm mưa”, của “người lữ thứ”, nỗi buồn của “quán chật đèo cao”, của “trời rộng sông dài”. Tràng Giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ.
Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: Tôi có thú vui thường chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ so sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương”.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” khái quát chủ đề của cả bài thơ là một nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa đất trời mênh mông, rộng lớn và bao la. Bài thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại, vừa cổ điển, cũng là một nét đặc trưng trong thơ của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước, khổ thơ đầu làm người đọc liên tưởng đến con sông thăm thẳm chứa đựng biết bao nỗi buồn miên man
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Với một loạt những từ ngữ gợi nỗi buồn thê lương “buồn”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái của thơ Đường thi dường như đã lột tả được hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của nhà thơ.
Trên dòng sông gợn sóng ấy là hình ảnh một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi thể hiện trong tĩnh có động nhưng sao người đọc vẫn cảm thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng “tràng giang” dài và rộng mênh mang, vô tận biết bao. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận và lòng người cũng đầy ắp những nỗi buồn khó tả.
Hình ảnh “thuyền”, “nước” vốn đi liền với nhau, thế mà Huy Cận lại để chúng xa cách nhau “thuyền về nước lại” sao nghe mà xót xa thế. Chính vì thế mà gợi lên trong lòng người một nỗi “sầu trăm ngả”. Lượng từ “trăm” kết hợp cùng chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ một nỗi buồn dài vô tận, không có điểm dừng.
Nỗi buồn ấy được trút hết vào câu thơ cuối “củi một cành khô lạc mấy dòng”, Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện sự cô đơn, lạc lõng trước cảnh sắc bao la, rộng lớn. “Một” gợi lên sự cô đơn, đơn chiếc, “cành khô: gợi lên sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, còn lại thân xác trơ trụi, khô héo, “lạc”mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, không có định hướng trên “mấy dòng” là thể hiện sự chảy trôi một cách hư vô.
Hình ảnh cành củi khô cứ trôi mãi trong vô định khiến người đọc cảm thấy trống vắng, cô đơn đến lạ, thể hiện một kiếp người long đong, đang trôi dạt giữa cuộc sống bộn bề chật chội.
Khổ thơ đầu trong bài Tràng giang của Huy Cận là đoạn thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
Dưới hình thức một bài thơ mang đậm phong cách thơ Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết :Tràng giang là một bài thơ ca non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
Khổ thơ đầu và cả bài thơ “tràng giang” là tác phẩm đặc sắc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cận. Bài thơ là sự kết hợp bút pháp hiện thực đan xen bút pháp cổ điển đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh, qua đó bộc lộ tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “tràng giang” của Huy Cận đã để lại rất nhiều tình cảm, ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 16
Thơ là cây đàn muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui, nỗi buồn sự cô đơn tuyệt vọng. Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ, vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà thơ còn thể hiện những băn khoăn suy nghĩ về sự biến đổi của thế sự với cảm xúc dạt dào khi thấy cái tôi nhỏ bé trước vũ trụ bao la Huy Cận đã viết nên tác phẩm “Tràng giang”, đặc biệt qua khổ thơ đầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ được điều đó.
Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, thơ là phương tiện biểu đạt cho cảm xúc, cảm xúc chân thành, mãnh liệt mới là cơ sở tạo nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính, cảm xúc càng mãnh liệt, thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh trái tim bạn đọc.
Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật cùng với nỗi buồn thế sự đầy sâu sắc Huy Cận đã xây dựng được một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời.
Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông có thể kể đến “Tràng giang”, theo lời kể của Huy Cận bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ Nam Bến Chèm. Trước cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, những cảm xúc thời đại đã dồn về khi thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé so với vũ trụ nên ông đã gửi gắm vào trong tác phẩm.
Và cảm xúc của nhà thơ có lẽ thể hiện rõ nhất qua khổ thơ đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Khổ thơ là bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ đồng thời ẩn chứa trong đó là một trái tim đa sầu, đa cảm với biết bao cảm xúc chan chứa không nói nên lời. Mở đầu bài thơ, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường “thuyền, sóng”. Đây là một bức tranh đẹp nhưng lại buồn đến tê tái, nói về điều này nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét thiên nhiên trong thơ mới đẹp nhưng lại buồn đến da diết bâng khuâng.
Nỗi buồn đó được lý giải trong câu nói của Huy Cận lúc đó chúng tôi mang một nỗi buồn đó là nỗi buồn thế hệ, chưa làm được gì cho đất nước trước cảnh nước mất nhà tan.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Từ “điệp điệp”, đã diễn tả tinh tế hình tượng của sóng nước. Những con sóng ấy sao hết lớp này đến lớp khác triền miên, vô tận. Ở đây nhà thơ miêu tả cái buồn của thiên nhiên hay cái buồn của con người, có lẽ là cả hai bởi Nguyễn Du từng viết.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Dường như nỗi buồn của tâm cảnh đã nhuộm vào ngoài cảnh để rồi những nỗi buồn ấy gợi lên theo từng đợt trong lòng thi nhân.
Thuyền và nước là hai sự vật luôn đi cùng với nhau vậy mà ở trong tác phẩm này nó lại trở nên bơ vơ, lạc lõng. Thuyền là hiện diện của sự sống con người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây lát, “con thuyền xuôi mái” là hình ảnh thực nhưng cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta nhớ tới hình ảnh của những kiếp người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu. Phải chăng chính Huy Cận cũng đã bắt gặp bóng dáng đó trong cuộc đời mình khi “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, / Chọn một dòng hay để nước trôi đi”.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Con thuyền và cành củi khô là hai hình ảnh được sử dụng hết sức táo bạo, chúng đang cùng xuôi trên dòng tràng giang. Trong thơ của mình Huy Cận đã nhiều lần nhắc đến nỗi sầu buồn thiên thu, đến đây ta lại bắt gặp thêm một nỗi sầu nữa đó là sầu trăm ngả.
Chỉ với 3 từ cùng một cành củi khô đã nói lên được hình ảnh của những kiếp người nhỏ bé trong xã hội cũ, nếu trong thơ trung đại mỗi hình ảnh chất liệu đưa vào thơ đều phải được gọt giũa, chọn lọc như tùng, cúc, trúc, mai thì trong Tràng giang, Huy Cận đã đưa vào một hình ảnh rất đời thường: củi khô.
Phải chăng cành củi khô ấy cũng chính là nỗi cô đơn lạc lõng trong lòng tác giả, chính lúc bắt gặp cành củi khô ấy tác giả đã đối diện với những cái hữu hạn lớn lao của đất trời từ đó nỗi sầu nhân thế ấy đã được nêu lên trở thành nỗi buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước. Vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước ấy nhưng nó đã được vẽ thêm đất, thêm làng vậy mà nỗi buồn tái tê ấy vẫn hiện diện, nó được gợi lên qua sự tiêu điều của những cồn cỏ, sự hiu hắt của gió và sự vắng vẻ của cảnh vật.
Cuộc sống là điểm xuất phát là, đối tượng khám phá, là cái đích cuối cùng của thơ ca. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực và có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc.
Đến với Tràng giang của Huy Cận ta như khám phá được những nỗi niềm nhà thơ ký thác, nghe được tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước nhà đang chìm trong khói lửa và tan tốc của chiến tranh, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã được làm nên thành công cho Tràng giang của Huy Cận.
Tác phẩm đã khép lại nhưng mỗi lần đọc bài thơ nói chung và khổ thơ đầu nói riêng ta như thấy được nỗi sầu nhân thế của tác giả trong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Có lẽ đó chính là lý do tại sao dù ra đời đã lâu nhưng Tràng giang vẫn không bị bụi thời gian phủ mờ nó vẫn còn sáng mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ nhiều thế hệ.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 17
Huy Cận được biết đến với một hồn thơ “cổ điển nhất trong phong trào Thơ mới”. Ông tâm sự “Trước Cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc”. Và bài thơ “Tràng giang” được viết ra thể hiện một nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước cuộc đời đặc biệt trong khổ đầu bài thơ Tràng giang.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng hình ảnh thơ quen thuộc: con thuyền, dòng sông để gợi nên cảm xúc:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Âm Hán Việt “tràng giang” đã được tác giả sử dụng bằng việc hiệp vần “ang”. Nó gợi cho người đọc một không gian rợn ngợp, đây là cách thể hiện nổi bật cho phong cách thơ Huy Cận. Tâm trạng nhà thơ được mở ra “buồn điệp điệp”. Đây là nỗi buồn đang được cụ thể hóa, nó được hữu hình giống như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, cứ thế không ngớt vỗ vào bờ.
Nỗi buồn ấy dai dẳng mà âm ỉ, như có sự tồn tại vĩnh cửu. Từ “song song” như nói đến hai thế giới đứng cạnh nhau mà không bao giờ gặp nhau. Đó là sự gần gũi mà lại chẳng có sự gặp gỡ.
Qua đó, tác giả nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô độc của con thuyền trên dòng sông, hay chăng đó cũng chính là sự đơn lẻ của con người bên dòng đời. Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập tạo nét cổ kính cho khổ thơ. Theo quy luật thuyền và nước là hai sự vật gắn bó mật thiết, nhưng trong bài thơ lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gợi sự xa cách, gợi cảm giác cô đơn, mất mát:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình ảnh cành củi khô táo bạo và độc đáo trong thi ca Việt Nam. Đó là hình ảnh có một không hai. Huay Cận đã thả vào Thơ mới một cành củi khô để nói hộ tấm lòng cả một thế hệ Thơ mới. Bởi vì, xưa nay những vật tầm thường ít được đặt vào thơ, đặc biệt là thơ cổ, hình ảnh củi khô mang vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng lại có giá trị biểu đạt ghê gớm.
Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng chắt lọc các từ đơn, khiến câu thơ như bị dập gãy, vỡ vụn. 7 tiếng trong một câu thơ mà vỡ thành 6 mảnh cô đơn, sự cô đơn của cành củi khô với sự vô tận của dòng nước.
Khổ thơ đầu bài “Tràng giang”, tác giả Huy Cận đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô tận. Đó là sự cô đơn, lẻ loi của con người trước dòng đời, và không tìm thấy sự giao cảm của bản thân với cuộc đời.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 18
Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt.
Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,.. Qua khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 19
Nhắc đến nhà thơ Huy Cận là nhắc đến một hồn thơ cổ điển với nỗi buồn mênh mang, sâu lắng. Bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ viết về cảnh sông nước nhưng sau bức tranh thiên nhiên rộng lớn, u tịch ấy là một tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của người thi sĩ. Đặc biệt, trong khổ thơ đầu tiên, Huy Cận không chỉ mở ra khung cảnh sông nước buồn vắng mà còn hé mở bức tranh tâm trạng thầm kín của bản thân:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình ảnh “sóng” trong câu đầu gợi ra những con sóng thực trên dòng giang trùng điệp đồng thời gợi cả những cơn sóng lòng đầy ưu tư trong lòng nhà thơ. Sóng trên dòng sông dài rộng kia cũng như lòng người vậy, mãi khắc khoải một nỗi buồn trùng điệp. Từ láy “điệp điệp” càng gợi tả nỗi buồn cứ lặp đi lặp lại của nhân vật trữ tình, từ ngày này qua tháng khác, nỗi buồn vừa rộng lại vừa dài, vừa sâu lại vừa xa.
Con sông thoáng “gợn” đôi bờ mà lòng người khắc khoải, nỗi u sầu cứ giăng mắc mãi khôn nguôi. Giữa dòng trường giang rộng lớn ấy, hình ảnh “con thuyền xuôi mái” xuất hiện như một nét điểm xuyết cho bức tranh thơ. Con thuyền cứ lững lờ nhẹ trôi trong không gian mênh mông của sông nước càng làm nổi bật ấn tượng về sự đơn độc, lẻ loi, vô định.
Thiên nhiên mênh mông quá, lòng sông dài rộng quá, biết tìm đâu bến đỗ cho con thuyền kia? Thuyền cứ thế thả mình xuôi theo những luồng nước song song, đi về mãi tận cuối chân trời. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với các từ ngữ vần bằng càng gợi thêm những nét mênh mang của vùng sông nước vừa như gần gũi lại vừa như xa vắng:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước vốn song hành, gắn bó cùng nhau, nhưng trong cảm nhận của Huy Cận, thuyền và nước lại chẳng cùng chung một điểm đến “thuyền về nước lại”. Bằng biện pháp đối lập tương phản “thuyền về nước lại” đã đặc tả nỗi sầu xa cách, chia lìa. Cụm tính từ “sầu trăm ngả ” làm cho nỗi buồn như lan tỏa, giăng kín cả bức tranh thơ.
Là thiên nhiên đang mang ‘sầu trăm ngả” hay chính lòng người đượm niềm tiếng sầu bi? Sóng nước mênh mông, thuyền không bến đậu ngỡ là tột cùng của nỗi buồn, hình ảnh cành củi khô trơ trọi đang lạc lõng giữa dòng càng làm cho lòng người thêm bâng khuâng, khắc khoải. Nghệ thuật đảo ngữ được tác giả vận dụng đầy tinh tế nhằm nhấn mạnh cái lạc lõng của vật giữa vật, của người giữa người, của cuộc đời giữa vũ trụ bao la.
Số từ “một” gợi lên sự đơn lẻ, cô độc, ít ỏi, danh từ “củi” kết hợp với tính từ “khô” càng gợi sự nhỏ bé, héo khô nhựa sống. Cành củi khô trôi dạt về đâu nơi vùng sóng nước. Không gian mang màu tâm trạng được tác giả vẽ nên bằng những nét vẽ giản dị của ngôn từ mà khiến lòng người không khỏi xót xa, u hoài.
Nhà thơ Huy Cận đã rất tinh tế khi sử dụng những hình ảnh cổ điển: sông, trời, thuyền, nước; lựa chọn thời gian lúc hoàng hôn gợi nỗi buồn kết hợp với những biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật lên bức tranh cảnh-tình. Khổ thơ đầu với 4 câu thơ vỏn vẹn trong 28 chữ, những mỗi chữ đều mang ý, mang tình trong đó. Khép lại đoạn thơ, người đọc không khỏi vương vấn với những nỗi buồn cùng thi sĩ.
Phân tích khổ thứ nhất trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 20
Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính.
Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận.
Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940, tác phẩm bộc lộ tâm trạng u buồn của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la, khắc hoạ sự cô đơn buồn thương đến tuyệt đối.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Từng cơn sóng mệt mỏi gợn lăn tăn giữa dòng sông sâu rộng. Con thuyền nhỏ cô độc giữa dòng sông càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn, thuyền mặc trôi vô định xuôi theo dòng giang bao la. Sóng gợn “điệp điệp”, nước “song song”, cảnh vật tuy có sự vận động nhưng sao vẫn thấy tĩnh lặng lạ lùng. Dòng sông thì bao la vô tận, thiên nhiên vẫn tuyệt đẹp đấy thôi mà sao vẫn mang nỗi sầu buồn khó tả:
“Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Thuyền và nước gắn bó chặt chẽ và song hành cùng nhau “thuyền về”, “nước lại” – dường như hai vật thể lại đang trong thế đối nghịch nhau gợi sự chia lìa, xa cách, cũng như nỗi sầu của người thi nhân vậy. Càng cố tìm đến thiên nhiên để thoát ly nỗi sầu muộn trước nhân thế, trước thực tại đảo điên, thi nhân lại càng thấy mình cô độc, buồn thương, càng nhỏ bé trước vũ trụ vô tận.
Những dòng nước cứ thế lặng lờ trôi, cành củi khô một mình lạc giữa mênh mang sóng nước. Dường như chẳng thể điều khiển được dòng nước mình đi, trôi dạt vô định giữa sông nước. Cảnh nhẹ nhàng, yên bình, đẹp nhưng đượm nỗi buồn lớn. Phải chăng cảnh cũng chất chứa tâm trạng hay chính lòng người buồn khiến cảnh cũng mang nỗi sầu tư, bởi vốn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong khổ thơ mở đầu bài Tràng giang. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Huy Cận (1919 – 2005), tên thật là Cù Huy Cận.
– Quê hương: làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh.
– Ông tham gia hoạt động cách mạng và từng giữ nhiều chức vụ cao trong Chính phủ Việt Nam như: Bộ trưởng Bộ canh nông đầu tiên, Thứ trưởng sau đó là Bộ trưởng Bộ Văn hóa nghệ thuật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục…
– Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc thuộc phong trào Thơ mới.
– Một số tác phẩm:
- Trước cách mạng tháng 8: Lửa thiêng (thơ, 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi triết lý, 1942), Vũ trụ ca (thơ, 1940 -1942).
- Sau cách mạng tháng 8: Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958), Đất nở hoa (thơ, 1960), Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973), Suy nghĩ về nghệ thuật (tiểu luận phê bình, 1980 – 1982)…
2. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng (1940) – tập thơ đầu tay của Huy Cận
2. Bố cục
– Phần 1 (khổ 1): cảnh sông nước và tâm trạng buồn của thi nhân
– Phàn 2 (khổ 2 + 3): cảnh hoang vắng và nỗi cô đơn của nhà thơ
– Phần 3 (khổ 4): cảnh hoàng hôn kì vĩ và tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ
3. Phương thức biểu đạt
– Biểu cảm
4. Thể thơ
– Thất ngôn
5. Giá trị nội dung
– Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
6. Giá trị nghệ thuật
– Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại