Top 19 bài Đoạn văn cảm nghĩ của em về Cô bé bán diêm 2023 ngắn gọn hay nhất

Rate this post

Andersen là nhà văn nổi tiếng người Đan Mạch với các tác phẩm chuyên dành cho thiếu nhi, từ thời thơ bé Andersen đã dành một tình yêu nồng nhiệt đối với các tác phẩm văn học nổi tiếng. Mặc dù phải hứng chịu nhiều thăng trầm trong cuộc sống từ khi chưa trưởng thành, trải qua đủ các nghề kiếm sống từ công nhân nhà máy thuốc lá, hoạt động trong nhà hát hoàng gia, sáng tác thơ, nhưng đến cuối cùng đầu óc nhạy bén, giàu sức tưởng tượng đã đưa tài năng của Andersen đạt đến độ chín khi trở thành một nhà văn chuyên sáng tác truyện cho thiếu nhi, được rất nhiều độc giả nhí trên thế giới yêu thích. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Andersen phải kể đến Cô bé bán diêm, bộc lộ sẽ những khao khát, ước mơ bé nhỏ của nhiều đứa trẻ có số phận bất hạnh, đồng thời cũng thể hiện được tấm lòng nhân ái, yêu thương con người của Andersen.

Nhân vật trung tâm của tác phẩm là một cô bé bán diêm, không tên, không tuổi, thay vào đó tác giả tập trung làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương của cô bé tội nghiệp, cũng là hoàn cảnh bất hạnh chung của hàng ngàn, hàng vạn những đứa trẻ bất hạnh khác nhau trên thế giới này. Sự bất hạnh của cô bé được khắc họa rõ nét với hình ảnh một bé gái, ngay giữa đêm giao thừa rét mướt, nhưng đầu trần, chân đất, bụng thì đói meo, đang dò dẫm trong bóng tối với hi vọng bán được vài bao diêm. Trái ngược với cảnh khốn khổ ấy, thì khắp nơi trong thành phố, người ta đang nô nức, quây quần chờ đón giáng sinh, những đứa trẻ khác đang hạnh phúc trong quần áo ấm, bên mâm bàn thịnh soạn. Mà sự bất hạnh của cô bé lạ bắt nguồn từ việc em mồ côi mẹ, người bà thân yêu đã qua đời, người thân duy nhất còn lại của em là bố thì lại không yêu thương em, suốt ngày rượu chè, bài bạc, đánh mắng em. Em sợ hãi khi phải trở về căn gác tối om, lạnh buốt, bởi ở đó cũng chẳng khác gì lang thang ngoài đường, khi mà từ sáng đến giờ em vẫn chưa bán được bao diêm nào, em biết chắc chắn điều gì đang chờ em nếu em trở về nhà với hai bàn tay không. Sự tủi thân và tuyệt vọng khiến cô bé tuyệt vọng chán nản ngồi xuống một góc hẹp giữa hai căn nhà để bớt đi những cơn gió rét buốt. Cũng trong giây phút ấy em nhớ lại những ký ức hạnh phúc và vui vẻ khi người bà còn sống, em cũng từng có một gia đình hạnh phúc, ấm êm, đủ đầy, nhưng khi bà đi rồi cuộc sống của em bỗng chốc trở thành địa ngục.

Càng nghĩ em càng thấy xót xa, tủi phận mình, ngay lúc này đây em cần một chút hơi ấm, để xua đi cái giá lạnh đã làm đôi bàn tay em đông cứng. Đêm giao thừa, nỗi khốn khổ, tuyệt vọng đã khiến cô bé dũng cảm hơn, mặc dù biết rằng dùng diêm để sưởi ấm thì sẽ không tránh khỏi trận đòn từ người cha độc ác. Thế nhưng khao khát tìm hơi ấm giữa đêm đông và sự cô đơn tột cùng đã thôi thúc em quẹt một que diêm. Ngọn lửa bừng sáng, ban đầu xanh lam màu của hi vọng sau đó biến trắng rực rỡ, thật đẹp, giấc mơ đầu tiên của cô bé bắt đầu. Em hơ nhẹ tay mình bên ánh lửa, mà tưởng như mình đang ngồi cạnh một lò sưởi ấm áp, thật khoan khoái dễ chịu biết bao, thế nhưng niềm hạnh phúc trong mơ ấy cũng chẳng kéo dài được bao lâu, que diêm vụt tắt, kéo theo những tưởng tượng tốt đẹp trả cô bé về lại với thực tại lạnh lẽo, đói rét, và cơn giận của người cha độc ác. Sự thật phũ phàng ấy càng khiến người ta thấy thương cảm cho một số phận bất hạnh, dù chỉ là một nhu cầu cấp thiết nhất giữa đêm đông như sưởi ấm mà cô bé hằng khao khát cũng thật khó khăn và xa vời.

Nuối tiếc làn hơi ấm mà que diêm đầu tiên mang lại, cô bé quẹt tiếp que diêm thứ hai, khi ánh lửa vừa bùng lên bức tường lạnh giá đã biến thành một bức rèm xinh đẹp, bên trong căn phòng sáng trưng, có một bàn thức ăn bày biện thịnh soạn, còn có một con ngỗng quay – món ăn truyền thống đêm giao thừa. Và kỳ diệu thay em thấy con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa, trên lưng cắm dao nĩa tiến dần về phía mình… Rồi que diêm phụt tắt trả lại em bức tường lạnh lẽo, những cơn gió rét thấu xương, chẳng có ngỗng, chẳng có bàn ăn nào cả, tất cả đều chỉ là do em tự tưởng tượng ra, lần nữa cô bé lại rơi vào hụt hẫng tuyệt vọng. Cũng từ đó chúng ta nhận ra rằng, việc tưởng tượng ra bàn thức ăn và căn phòng ấm áp chính là những khao khát mãnh liệt từ sâu trong đáy lòng cô bé. Là những nhu cầu bình thường nhất của những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, được ăn no, được ở trong một căn phòng ấm áp, được bảo vệ che chở, chứ không phải là lăn lộn kiếm sống, bán từng bao diêm ngay giữa trời đông buốt giá.

Que diêm thứ ba vụt sáng, lần này cô bé nhìn thấy một cây thông Nô-en được trang trí rực rỡ, bên cạnh đó là những bức tranh đầy màu sắc được bày trong những tủ hàng, thứ mà biết bao lâu rồi êm không được chạm vào. Thế nhưng ánh diêm vụt tắt cũng mang theo tất cả những tráng lệ rực rỡ, không có cây thông, không có ánh nến, chỉ còn lại màn đêm đen tối, cùng dòng người vội vã tìm về tổ ấm, để lại một mình em. Ở giấc mơ thứ ba, mọi thứ diễn ra thật ngắn ngủi, nhưng nó đã bộc lộ rất rõ một khao khát, một nhu cầu khác trong tâm hồn cô bé tội nghiệp ấy là nhu cầu được thỏa mãn những giá trị tinh thần. Với một đứa trẻ đang trong tầm phát triển, ngoài việc được ăn no, mặc ấm, chúng còn cần những niềm vui mang giá trị tinh thần, như được vui chơi, được ngắm nhìn những thứ đẹp mắt. Mà đối với cô bé bán diêm, em chẳng được nhận bất cứ một thứ gì cả, ngoài những cơn gió lạnh buốt, cái bụng đói meo, sự khắc nghiệt đến từ chính người cha ruột.

Và để kết thúc hết những đau khổ, bất hạnh trên cuộc đời, hình ảnh que diêm thứ tư được quẹt lên, ngọn lửa bừng sáng, em nhìn thấy người bà yêu quý đã rời bỏ em đi từ lâu. Có thể nhận thấy ở lần quẹt diêm này là khao khát được yêu thương, được chăm sóc, thứ mà cô bé bán diêm đã rất lâu rồi không còn cảm nhận được. Trong thâm tâm cô bé, chỉ có ở trong vòng tay bà, cô mới được hạnh phúc, điều đó vượt lên trên tất cả những khao khát vật chất tầm thường khác. Niềm khao khát mãnh liệt ấy được bộc lộ rất rõ khi mà cô bé điên cuồng quẹt hết tất cả số diêm còn lại trong bao, chỉ mong níu giữ được hình ảnh của người bà đã mất. Và khi que diêm cuối cùng vụt tắt cũng là lúc cô bé rời bỏ hết những tối tăm, đau khổ ở thế giới này, theo bà về một thế giới khác tốt đẹp hơn bớt đau khổ hơn. Cô bé chết vì cái giá rét đêm giao thừa đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm, có lẽ rằng chỉ khi chết đi em mới hoàn toàn thoát khỏi hết tất thảy những bất hạnh mà em phải gánh chịu. Điều đó không khỏi khiến người ta xót xa cho một số phận con người, và ở thế giới ngoài kia còn biết bao nhiêu những mảnh đời cơ cực, khổ sở như thế nữa.

Truyện ngắn Cô bé bán diêm đã mở ra cho chúng ta một bài học sâu sắc về tầm quan trọng của gia đình đối với trẻ em, mỗi đứa trẻ trên thế giới đều xứng đáng có một gia đình đầy đủ, được hưởng những nền giáo dục tốt đẹp nhất, được thỏa mãn cả nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển và trưởng thành trong xã hội. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tấm lòng nhân ái, đồng cảm với những số phận bất hạnh, đặc biệt là với những trẻ em có cuộc sống không may mắn của tác giả, bộc lộ mong muốn rằng tất cả trẻ em trên thế này này đều được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy.

Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 6

Xưa nay vẫn có những cảnh đời tuổi thơ bất hạnh, bất cứ nơi nào trên trái đất. Những cảnh đời mồ côi, hoặc mất cha hay mất mẹ không chỉ có trong truyện cổ mà còn được đưa vào những trang văn hiện đại. Ngay trong chương trình Ngữ văn lớp 8, chúng ta biết nỗi bất hạnh của cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu (đoạn trích Trong lòng mẹ) thì nay chúng ta lại gặp một cảnh đời bất hạnh khác ở xứ sở Đan Mạch trong truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen để cảm thông với những ước mơ đẹp, và ngậm ngùi trước cái chết vì giá rét trong đêm giao thừa của cô.

Truyện kể về đêm giao thừa, người rét mướt, một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào. Nhà văn đã miêu tả hình ảnh của em lúc đêm về càng lúc càng rét buốt, “em ngồi nép trong một góc tường… thu đôi chân vào người…”. Miêu tả ngắn thôi, chỉ 12 từ, nhưng người đọc thấy rõ trong trí tưởng tượng của mình dáng cô bé ngồi co ro, cố thu mình lại càng tốt để ngăn bớt cơn lạnh.

Cô bé đang ở ngoài đường, sát tường hai ngôi nhà đóng kín cửa, giữa cái lạnh cắt đa của đêm giao thừa. Mắt cô nhìn lên “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn” mũi cô ngửi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Hình ảnh ấm cúng ấy, mùi vị thơm tho ấy, gợi lại trong ký ức cô bé hoàn cảnh sống ngày trước của mình “Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà.

Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em phải lìa ngôi nhà xinh xắn”. An-đéc-xen đặt nỗi nhớ của cô bé vào đúng lúc, đúng chỗ vừa giới thiệu được hai hoàn cảnh sống đối nghịch vừa giải thích nguyên nhân của sự đổi thay khiến em phải sống đời bất hạnh hiện tại: Thần Chết! Thần Chết đã cướp đi người bà hiền hậu. Thần Chết đã đuổi cha con cô ra khỏi ngôi nhà xinh xắn đến ở căn gác xép sát mái nhà không ngăn nổi gió sương.

Tham Khảo Thêm:  Bản Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh - Ngữ văn lớp 12

Và bất hạnh lớn nhất là Thần Chết đã biến đổi tính nết của người cha, thay vì thương yêu và chăm sóc con cái thì lại buộc con gái nhỏ dại đi bán diêm, “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em”. Sự việc diễn ra như thế nào thì kể lại như thế chứ không hề chen vào một lời oán trách hay kết tội người cha đứng với hoàn cảnh sống và tính cách phụ thuộc của tuổi thơ.

Một mình, bụng đói giữa đêm giao thừa gió rét, đôi bàn tay đã cứng đờ ra, muốn đốt một que diêm mà hơ ngón tay em cũng chần chừ đôi lần ba lượt. Ánh sáng, hơi ấm từ que diêm đã giúp dòng suy nghĩ của em thoát khỏi hiện thực lạnh giá, bẽ bàng. “Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy non đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.

Dòng mơ tưởng này đã chi phối hành vi của em. Em hành động theo “Em tưởng chừng như…”. Bởi vậy, “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn”. Dòng mơ tưởng về lò sưởi tỏa hơi nóng dịu dàng kia đã biến mất theo ngọn lửa cháy nhanh và chóng tàn của que diêm. Hiện thực giá rét kéo em về cùng nỗi lo “bị cha mắng”. Đêm tối với cái lạnh cắt da, que diêm với ánh sáng và hơi ấm.

Hai hình ảnh tương phản ấy đã được nhà văn đặt cạnh nhau như muốn khơi thêm nguồn ao ước ở trong em. Nếu quẹt que diêm lần thứ nhất, ánh sáng của nó khiến em “tưởng chừng như…” thì khi quẹt que diêm thứ hai “em nhìn thấy vào tận trong nhà” và thấy một bàn ăn sang trọng đã được dọn sẵn, có cả một con ngỗng quay. “Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”.

Mộng tưởng lúc này đã có tính huyền ảo. Tội nghiệp cô bé bán diêm. Có lẽ lúc này cô đói lắm rồi. Mơ ước được no khiến hiện thực “sực nức mùi ngỗng quay” khu phố” biến thành con ngỗng như trong mộng tưởng của cô bé bán diêm. Nhưng khi “que diêm vụt tắt” thì “ngỗng ta” cũng biến mất khi đang tiến về phía cô bé bán diêm, hiện thực khắc nghiệt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt” và mấy người khách quần áo ấm áp nhưng lãnh đạm tình người xuất hiện trước mắt em.

Lần quẹt diêm thứ ba, em thấy hiện ra cây thông Nô-en rất lớn và lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến, rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ. Khi em với đôi tay về phía cây thì ánh sáng que diêm… tắt. “Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Mộng tưởng này gợi cho em nhớ lại lời của người bà hiền hậu thường nói với em lúc bà còn sống rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.

Nỗi nhớ này làm cô bé bán diêm ao ước được thấy bà nội của cô. Cô quẹt một que diêm nữa vàọ tường, ánh sáng xanh tỏa ra chung quanh, và em thấy rõ bà đang mỉm cười với em. Em reo lên và xin bà cho em cùng theo bà. Điều lạ lùng và cảm động là nhà văn đã đặt cô bé vào vị trí của con người rất tỉnh táo. Cô bé đã nói với bà: “Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xỉn bà đừng bỏ cháu ở nơi này”.

Có lẽ những lần quẹt diêm trước đã giúp cô bé nhận ra cảnh thật và cảnh ảo. Thêm vào đó thể xác của cô bé thì đói và lạnh, còn tâm hồn thì rất cô độc. Về nhà ư? về căn gác xép sát mái, tường nứt không ngăn được luồng gió rét kia ư? về nơi thường nghe những lời mắng nhiếc và chửi rủa kia ư?

Sức cô bé đã cùng, lực cô bé đã kiệt. Thông thường, trong hoàn cảnh đó, chỉ có tình thương yêu cha mẹ, anh em., giúp cô bé thêm sức mạnh để quay về. Nhưng thực tế thì cô không có động lực ấy, ngược lại có thể là nỗi sợ hãi ngày càng lớn càng nặng nề hơn. Bởi vậy mà em sống với ảo ảnh và không muốn rời xa nó.

Em đã quẹt tất cả những que diêm còn lại ở trong bao để thấy bà, gần bà, cho tới lúc “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa đó nữa. Họ đã về chầu Thượng đế”. Đọc hai câu văn ấy ai cũng nhận ra cô bé bán diêm đã chết. Cô bé đã chọn cái chết cùng một ảo giác đẹp, dù ở phần thể xác em chết vì đói và lạnh.

Và nhà văn đã tô điểm cho nét đẹp của em bằng hình ảnh đối nghịch giữa cảnh và người: “Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”. Cô bé bán diêm đã chết theo cách của người đang thiếp ngủ trong giấc mơ đẹp.

Nhìn hình ảnh những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhàn, người ta có thể đoán đúng hành vi của cô bé trước khi chết: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm! ”, những hình ảnh “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười ” kia thì khó có thể đoán ra điều gì khiến khuôn mặt cô bé biểu hiện nên hình ảnh có vẻ vui sướng và thỏa nguyện ấy.

Về cái chết của những người bất hạnh, nói chung nhiều nhà văn đã miêu tả, mà phần lớn là buồn thảm, hoặc vật vã dữ dội (như cái chết của lão Hạc). Duy cái chết của cô bé bán diêm thì người đọc có cảm giác buồn thương nhưng thanh thản, nhẹ nhàng và thấm sâu. Tạo được cảm giác khác lạ ấy có lẽ nhờ vào cách xây dựng tính cách nhân vật (cô bé bán diêm) của An-đéc-xen, một cô bé bán diêm bất hạnh nhưng không giận đời.

Giữa hiện thực đen tối, cô bé sống với những mộng tưởng đẹp cho tới hơi thở cuối cùng. Cô bé bán diêm sống mãi với người đọc là ở tính cách ấy của em qua tài kể chuyện của nhà văn.

Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 7

Chắc hẳn những ai được cắp sách đến trường đều biết đến An-đéc-xen. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó tại Đan Mạch, ông vốn là người đa cảm và có năng khiếu viết văn và rồi ông trở thành nhà văn nổi tiếng với loại truyện dành cho thiếu nhi. Cô bé bán diêm là câu chuyện vô cùng cảm động về số phận bất hạnh của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. Tình yêu thương con người và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của điều thiện là nội dung bao trùm lên toàn bộ sáng tác của An-đéc-xen.

Câu chuyện được chia làm ba phần,phần thứ nhất tác giả giới thiệu hoàn cảnh cơ cực của cô bé bán diêm. Phần thứ hai kể về những lần quẹt diêm và bao hình ảnh đẹp đẽ hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba là phần miêu tả cái chết thương tâm của cô bé trong đêm đông giá lạnh.

Thời gian xảy ra câu chuyện là vào đêm giao thừa, đáng nhẽ ra là mọi người phải được sum họp bên gia đình để cùng nhau đưa tiễn năm cũ và chào đón mọi thứ tốt đẹp từ năm mới trong không khí thiêng liêng, ngập tràn hạnh phúc. Nhưng chỉ riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần chân đất, váy áo đều rách,bụng đói meo vẫn đang lần mò trong bóng tối.Suốt ngày hôm nay,cô lang thang khắp nơi mà không bán được bao diêm nào.

Xung quanh là không khí tràn đầy ấm áp của sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và mùi ngỗng quay thơm phức. Những hình ảnh gợi nhớ lại những ngày tháng năm xưa khi được đón giao thừa bên bà nội trong căn nhà xinh xắn có cây thường xuân bao quanh. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập tương phản để làm nổi bật tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé.

Em đang rét và có lẽ càng rét hơn khi thấy mọi nhà sáng rực đèn. Chẳng có điều gì tốt đẹp đang chờ cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt những lời mắng chửi của người cha thô lỗ cộc cằn. Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và mẹ đã đi vào di vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô tan nát.

Giờ đây, cô bé ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà để ngăn gió cho đỡ lạnh.Không bán được diêm, sợ bị cha đánh đòn nên cô chẳng dám về nhà và cho dù có ở nhà cũng lạnh chẳng kém ở đây.

Giữa đêm giao thừa rét buốt cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em ngồi nép vào chiếc bờ tường kia cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ bé ấy. Đôi bàn tay em cứng đơ vì lạnh em ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm và cuối cùng em cũng đánh liều và quẹt một que diêm.

Diêm bén lửa thật là nhạy ngọn lửa lúc đầu xanh, dần dần biến mất đi,trắng ra,rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Thật là dễ chịu đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa, bên tay cầm diêm ngón cái nóng bỏng lên. Em ao ước lúc này mà được ngồi gần một cái lò sưởi thì sung sướng biết bao.

Em vừa duỗi chân ra thì lửa vụt tắt,lò sưởi biến mất. Em ngồi đó nhìn que diêm đã tàn hẳn em bần thần cả người và nghĩ rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm đêm nay về nhà thế nào cũng bị ăn mắng. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên, bức tường như biến thành một bức tường vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay nhưng điều kì lạ là con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, tiến về phía em.

Tham Khảo Thêm:  TOP 10 bài Kể lại một việc tốt mà em đã chứng kiến 2023 SIÊU HAY

Đáng buồn thay những hình ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát khi lửa tắt xung quanh em là một màu đen tối mịt, chỉ còn lại những màn sương đêm lạnh buốt, cái đói rã rời và đáng sợ hơn cả nỗi cô đơn không ai chia sẻ. Không có bàn ăn thịnh soạn nào cả, cũng chẳng có ngỗng quay mà chỉ toàn một màu đen với cánh lạnh giá của đêm đông bao trùm lấy cô bé.

Tuy vậy em không tuyệt vọng. Trí tưởng tượng đã đem lại cho em những ao ước mới em muốn đêm Nô-en phải có cây thông nên quyết định quẹt que thứ ba và bỗng hiện lên một cây thông Nô-en cây được trang trí thật lộng lẫy cùng với hàng ngàn ngọn nến sáng rực.

Và que diêm nữa vào tường một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em thấy bà đang mỉm cười với em, em reo lên cho cháu đi với. Và em biết khi que diêm tắt thì hình ảnh bà cũng mất đi như những lần khác và em đã quyết định quẹt toàn bộ những que diêm còn lại để níu kéo bà để được bà cho đi theo đến một thế giới không đói rét và đau khổ.

Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và cái chết bi thảm của cô bé bán diêm. Sáng hôm sau tuyết đã phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh mọi người vẫn vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy ở một xó tường người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.

Em bé thật đáng thương. Trong xã hội tư bản thiếu sự đồng cảm và tình yêu thương giữa người với người nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với niềm xót thương vô hạn đối với cô bé không may mắn. Tuy vậy nội dung câu chuyện Cô bé bán diêm với kết thúc thương tâm của nó vẫn khiến người đọc rơi nước mắt.

Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 8

An-đéc-xen một nhà văn có lẽ không còn lạ lẫm gì đối với nhiều người. Đây là một nhà văn của Đan Mạch với những tác phẩm truyện ngắn, truyện thiếu nhi gắn liền với tuổi thơ cắp sách tới trường của mỗi người. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Chính từ sự nghèo khó với những nỗ lực vươn lên. Cùng với năng khiếu viết văn ông đã cho ra đời những tác phẩm truyện vô cùng đặc sắc.

Trong đó truyện ngắn “Cô bé bán diêm” có thể nói là một tác phẩm để đời của ông. Đây là một tác phẩm nói về số phận bất hạnh của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. Tác phẩm cũng toát lên những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc.

Một tác phẩm với bố cục rõ ràng gồm ba phần chính. Phần thứ nhất nói về hoàn cảnh khó khăn, cơ cực của cô bé bán diêm. Phần thứ hai kể về những lần quẹt diêm với những hình ảnh hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba nói về cái chết đầy thương cảm của cô bé bán diêm trong đêm đông lạnh giá.

Trong cái đêm giao thừa, đáng lý ra những đứa trẻ phải được sum họp cùng gia đình. Cùng cha mẹ để đón chào một cái năm mới với bao lời chúc tốt đẹp, với những giây phút ngập tràn hạnh phúc. Nhưng không trong cái tiết trời lạnh lẽo đó một mình em “cô bé bán diêm” không cha, không mẹ, không người thân vẫn chân trần, trong chiếc váy mỏng rách bung, bụng đói cồn cào vẫn lững thững lần mò trong bóng tối.

Xung quanh là không khí tràn đầy ấm áp của sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và mùi ngỗng quay thơm phức. Những hình ảnh gợi nhớ lại những ngày tháng năm xưa khi được đón giao thừa bên bà nội trong căn nhà xinh xắn có cây thường xuân bao quanh. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập tương phản để làm nổi bật tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé.

Em đang rét và có lẽ càng rét hơn khi thấy mọi nhà sáng rực đèn. Chẳng có điều gì tốt đẹp đang chờ cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt. Những lời mắng chửi của người cha thô lỗ cộc cằn. Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và mẹ đã đi vào dĩ vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô tan nát.

Giữa đêm giao thừa rét buốt cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em ngồi nép vào chiếc bờ tường kia cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ bé ấy. Đôi bàn tay em cứng đơ vì lạnh em ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm và cuối cùng em cũng đánh liều và quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy ngọn lửa lúc đầu xanh, dần dần biến mất đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Thật là dễ chịu đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa, bên tay cầm diêm ngón cái nóng bỏng lên.

Em vừa duỗi chân ra thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất, em ngồi đó nhìn que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và nghĩ rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm đêm nay về nhà thế nào cũng bị ăn mắng. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên, bức tường như biến thành một bức tường vải màu.

Em nhìn thấu vào tận trong nhà bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh. Trên bàn toàn đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay nhưng điều kì lạ là con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, tiến về phía em. Đáng buồn thay những hình ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát khi lửa tắt xung quanh em là một màu đen tối mịt. Chỉ còn lại những màn sương đêm lạnh buốt, cái đói rã rời và đáng sợ hơn cả nỗi cô đơn không ai chia sẻ.

Không bán được bao diêm nào, trời vẫn lạnh lẽo. Nhưng sự lạc quan vẫn trong em, và những tưởng tượng phong phú trong tâm trí của một đứa trẻ thơ trong em đã trỗi dậy. Em ước ao có một cây thông Nô-en. Và em đã quẹt que diêm thứ ba và một cây thông Nô-en trang hoàng lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến sáng rực đã hiện ra trong trí óc em.

Và em quẹt thêm một que diêm nữa và thấy được một ánh sáng xanh ấm áp tỏa ra xung quanh, bà của em đã hiện ra mỉm cười với em và em reo lên “cho cháu đi với”. Đến khi que diêm tắt mọi thứ lại tối tăm lạnh lẽo trở lại.

Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và cái chết bi thảm của cô bé bán diêm. Sáng hôm sau tuyết đã phủ kín mặt đất. Nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh mọi người vẫn vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy ở một xó tường người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.

Trong cái xã hội tư bản nghiệt ngã đó, đâu có chỗ cho tình thương giữa những con người lạ lẫm nhau. Xã hội dường như là một sự thờ ơ với những số phận bi thương. Cô bé bán diêm là một trong những con người khốn cùng của xã hội đó. Chỉ khi cái chết của em xảy ra, người ta mới để ý tới một cô bé chân trần bán diêm trong đêm đã ra đi trong cái đêm tối lạnh lẽo với bao niềm chua xót. Và người đọc cũng không thể nào cầm được nước mắt.

Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – mẫu 9

Tuổi trẻ chúng ta, ai đã từng cắp sách đến trường hẳn đều biết đến H.C. An-đéc-xen, người viết truyện kể cho trẻ em nổi tiếng thế giới. Ông là nhà văn Đan Mạch, sống và viết trong thế kỉ XIX (1805 – 1875). Bạn đọc khắp năm châu đã rất quen thuộc với các tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bầy chim thiên nga, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm,…

Truyện của An-đéc-xen nhẹ nhàng, trong trẻo, toát lèn lòng thương yêu con người – nhất là những người nghèo khổ và niềm tin, khát vọng những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ thuộc về con người. Truyện Cô bé bán diêm đưa người đọc chúng ta vào khung cảnh một đêm giao thừa giá rét ở đất nước Đan Mạch, Bắc Âu cách đây hơn một trăm năm.

Em bé gái ấy nhà nghèo, mồ côi mẹ, bà vừa mất, bố sai đi bán diêm kiếm từng đồng xu nhỏ độ thân. Suốt cả ngày cuối năm, cho đến đêm giao thừa, em chẳng bán được bao diêm nào. Vừa đói, vừa rét, em bé thu mình lại trong xó tường của một tòa nhà lớn để… ước ao, mơ tưởng.

Những khát vọng tuổi thơ ấy cứ sáng lên, sáng lên đẹp đẽ, kì ảo làm sao và đau khổ làm sao!. Thể hiện điều này, nhà văn đã xây dựng những hình ảnh đối lập, thực tế và mộng tưởng, mộng tưởng và thực tế cứ đan cài vào nhau, tranh chấp với nhau, lôi cuốn người đọc…

Phần mở đầu tác phẩm kể rõ cảnh ngộ éo le của cô bé bán diêm với những chi tiết đối lập rõ nét : “Trời đông giá rét, tuyết rơi”, nhưng “cô bé đầu trần, chân đất” bước đi. Ngoài đường lạnh buốt và tối đen, nhưng “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”. Cô bé “bụng đói”, cả ngày chưa ăn uống gì, mà “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”…

Những chi tiết tương phản đó khiến người đọc thấy tình cảnh em bé thật tội nghiệp, đáng thương. Cái rét, cái đói, công việc kiếm sống giày vò, đày đọa em. Em đã rét, đã khổ, có lẽ càng rét khổ hơn khi thấy mọi nhà rực ánh đèn. Em đã đói, có lẽ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức… Đi vào đoạn trích trong sách giáo khoa, từ câu mở đầu “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn…” đến câu “… đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”, người đọc thấy ngay tình cảnh khốn khó của cô bé.

Năm xưa, “khi bà nội hiền hậu của em còn sống”, “em được đón giao thừa trong căn nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, em đã sống những ngày đầm ấm”. Giờ đây, giữa đêm giao thừa này, “em ngồi nép trong một góc tường, thu đôi chân vào người, mỗi lúc càng thấy rét hơn”. Đây cũng là hai hình ảnh tương phản, đối lập giữa hiện tại và quá khứ.

Tham Khảo Thêm:  TOP 55 bài Mở bài về tác phẩm Tuyên ngôn độc lập 2023 SIÊU HAY

Trước kia, cô bé được sống hạnh phúc bao nhiêu thì bây-giờ bơ vơ, côi cút bấy nhiêu. Cả nhà, chỉ có bà là người thương yêu em nhất, là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất giờ không còn nữa. Trước kia, đêm giao thừa, em được vui chơi quây quần trong nhà, giờ em phải bơ vơ ngoài phố kiếm sống. Mường tượng hình ảnh cô bé bán diêm côi cút, đói khổ giữa đêm giao thừa, ta chợt thấy nhớ mấy câu thơ trong bài Mồ côi của Tố Hữu:

Con chim non rũ cánh
Đi tìm tổ bơ vơ
Quanh nẻo rừng hiu quạnh
Lướt mướt dưới dòng mưa.

Cảnh ngộ em bé Đan Mạch trong đêm giao thừa vẫn phải đi kiếm sống tuy có khác cảnh ngộ em bé Việt Nam mồ côi tìm mẹ, nhưng đọc văn, nhớ lại thơ, hình dung thân phận hai kiếp người thơ dại ấy, ai mà chẳng não lòng, rớm lệ!

Phần thứ hai của câu chuyện, từ câu “Chà ! Giá quẹt một que diêm…” đến “Họ đã về chầu Thượng đế”, kể về những lần cô bé quẹt diêm đốt lửa, đốt sáng lên những ước mơ, khát vọng. Ở phần này, những hình ảnh đối lập, tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và ảo ảnh cứ sóng đôi hiển hiện, đang cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên…

Cô bé quẹt que diêm thứ nhất: diêm sáng rực như than hồng. Em tưởng chừng như “đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng… Lửa cháy non đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”. Nhưng, em vừa duỗi chân ra thì “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Niềm vui của em cũng vụt tắt.

Em bần thần nghĩ đến nhiệm vụ bán diêm và lời cha quở mắng. Cô bé quẹt que diêm thứ hai: “Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay… Ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”. Nhưng diêm vụt tắt.

Trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo. Phố xá vắng teo. Mấy người khách qua đường vội vã hoàn toàn lãnh đạm với em. Em bé cố tìm lại ngọn lửa để tiếp tục sưởi ấm, xua đi bóng tối và giá lạnh. Em quẹt que diêm thứ ba: Một cây thông Nô-en hiện lên, “Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây thông mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực…”. Nhưng diêm lại vụt tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi, rồi biến thành những ngôi sao trên trời.

Từ lần quẹt diêm thứ nhất, đến lần thứ hai, thực tế đã xóa nhòa đi mộng tưởng của em bé. Nhưng đến ngọn nến thứ ba thì dường như mộng tướng đã vươn dậy, cố vượt lên trên thực tế. Vì thế, sau khi diêm tắt, em bé thấy tất cả các ngọn nến bay lên, biến thành những ngôi sao trên trời. Dường như em bé đang ngẩng đầu nhìn sao trời, rồi nhớ tới người bà thân yêu.

Em liền quẹt luôn que diêm thứ tư thì… bà em hiện lên. Em sung sướng reo lên, trò chuyện với bà, xin bà cho đi theo…”cho cháu về với bà”. Có thể đến phút này, cô bé tội nghiệp ấy đã sức tàn, lực kiệt dần” gục xuống cạnh bức tường giá buốt. Em lịm dần, lịm dần và trôi vào trong một giấc mơ đẹp. Diêm vụt tắt. Ánh sáng, hơi ấm vụt tắt, “ảo ảnh” biến mất. Nhưng em bé bừng tỉnh, như ngọn lửa trước khi tắt hẳn đã sáng lóe lên. Thế là cô bé quên hết mọi thực tế phũ phàng, quên nhiệm vụ bán diêm, quên sự quở mắng của cha.

Những que diêm thứ năm, thứ sáu, thứ bảy… và tất cả những que diêm trong bao được đốt sáng lên, nối ánh sáng, chiếu sáng như ban ngày. Em bé thực sự được sống trong một giấc mơ kì diệu. Em thấy “bà em to lớn và đẹp lão… Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa…”.

Rõ ràng, mỗi lần quẹt diêm, đốt lửa là một lần cô bé đói khổ kia ước mơ, khát vọng. Những ước mơ của em thật giản dị và ngây thơ, gắn liền với tuổi thơ trong sáng và nhân hậu của em. Em khao khát có cuộc sống vật chất đầy đủ, được hưởng những thú vui tinh thần, được sống trong hạnh phúc gia đình ấm êm, được bà – người thân yêu nhất – chăm sóc, chiều chuộng. Đó cũng là những ước mơ khát vọng chính đáng, muôn đời của các em bé nói riêng và của con người nói chung.

Thể hiện khát vọng, ước mơ của một em bé cụ thể trong câu chuyện này, nhà văn Đan Mạch ấy hẳn đã cháy lòng mong muốn các em bé và mọi người, trước hết là những kiếp người đói khổ, vượt qua được những thực tế phũ phàng để vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có miếng ăn no đủ, có áo ấm, được yêu thương, chăm sóc. Mỗi lần em bé quẹt diêm đốt lửa dường như cũng là một lần ngọn lửa tin yêu, khát vọng trong trái tim nhà văn cháy lên, sáng lên, động viên con người, giục giã con người…

Nhưng thực tế phũ phàng – thực tế cuộc sống nước Đan Mạch những năm giữa thế kỉ XIX, khi nhà văn viết tác phẩm này và thực tế ngày nay của không ít đất nước đói nghèo trên trái đất, đã xoá đi mộng tưởng của em bé bán diêm và biết bao người nghèo khổ khác nữa.

Vì thế, khi em bé được gặp lại bà cũng là lúc em giã từ cõi đời. Đoạn kết thúc tác phẩm, từ câu “Sáng hôm sau…” đến hết, kể về cái chết của cô bé bán diêm. Từ những dòng văn bay lượn, chói sáng đầy chất lãng mạn ở cuối đoạn trên, đến đây, ngôn từ như trĩu xuống, nhẹ nhàng, thấm thía một âm điệu buồn thương. Có buồn, có thương nhưng không bi luỵ mà vẫn trong sáng và nồng ấm, đúng như ánh sáng và hơi ấm của một ngày đầu năm. “Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa”.

Vâng, cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng những hình ảnh đối lập, tương phản rất đặc sắc. Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết. Người chết trong băng giá từ đêm khuya mà đến rạng sáng đôi má vẫn hồng, đôi môi đang “mỉm cười”.

Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm”, một công việc bình thường, nhưng thực ra em bé đã sống những phút kì diệu, giữa cảnh “huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”… Miêu tả “một cảnh tượng thương tâm” về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của An-đéc-xen vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết.

Nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười, sống trong cảnh tượng huy hoàng cùng bà bay lên đón năm mới. Nói về cái chết, người ta hay nghĩ tới bi kịch. Nhưng viết về cái chết của cô bé bán diêm như thế, tác phẩm của An-đéc-xen là một bi kịch lạc quan.

Rõ ràng, đến những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất cho con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch – ông già kể chuyện cổ tích nổi tiếng ấy, thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn.

Có thể nói, An-đéc-xen “biết khám phá những khía cạnh thần kì, bất ngờ ngay trong những sự việc đơn giản hằng ngày, đưa chúng vào thế giới thần thoại đầy chất thơ, nhưng vẫn giải quyết chúng phù hợp với những quan niệm nhân sinh và xã hội tiến bộ của mình”.

Truyện Cô bé bán diêm có nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phản, diễn biến hợp lí, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với một em bé bất hạnh, lay động trong ta tình thương và niềm tin ở con người, nhất là những con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– An- đéc- xen( 1805- 1875) tên đầy đủ là Christian Andersen

– Quê quán: nhà văn người Đan Mạch

– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

   + Ông là nhà văn nổi tiếng với thể loại truyện dành cho trẻ em, nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích nhưng có nhiều truyện là của ông.

   + Năm 1835, ông bắt đầu sáng tác truyện kể nhan đề Chuyện kể cho trẻ em tại Ý

   + Từ đó ông thường xuyên cho ra đời cac âu truyện như Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của Hoàng đế, Chú vịt con xấu xí…

– Phong cách sáng tác:

   + Phong cách giản dị đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực, những câu truyện ông viết hầu hết dành cho trẻ em.

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Văn bản được viết vào năm 1845, khi tên tuổi của tác giả lừng danh thế giới với trên 20 năm cầm bút

2. Bố cục

– Đoạn 1: (Từ đầu đến “bàn tay em đã cứng đờ ra”): Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa giá rét

– Đoạn 2: (tiếp đéo đến “họ đã về chầu Thượng Đế”): Các lần quẹt diêm, mộng tưởng và hiện thực

– Đoạn 3: Còn lại: Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm

3. Giá trị nội dung

– Qua câu truyện nhà văn đã đưa đến chúng ta một thông điệp ý nghĩa: Lòng thương cảm trước số phận của trẻ thơ bất hạnh, hãy phấn đấu vì một tương lai cho tuổi thơ tốt đẹp tràn đầy hạnh phúc.

4. Giá trị nghệ thuật

– Với cách kể chuyện hấp dẫn chân thực, diễn biến tâm lí nhân vật sâu sắc, tác giả còn sử dụng thành công biện pháp tương phản nhằm tạo điểm nhấn về một số phấn bất hạnh nhưng em luôn cháy lên khát vọng sống tốt đẹp và những ước mơ tươi sáng.

Related Posts

Cách nướng cánh gà bằng nồi chiên không dầu dễ làm mà thơm ngon

1. Chi tiết cách nướng cánh gà bằng chảo không dầu ngon Để món cánh gà giòn ngon vượt mong đợi, tốt nhất bạn nên chuẩn bị…

Tổng hợp những ý tưởng kinh doanh cho mẹ nội trợ hot nhất 2023

Thời gian đọc: 4 phút Ý tưởng kinh doanh là gì? Ý tưởng kinh doanh Ý tưởng của một cá nhân hoặc một tổ chức để đạt…

Hướng dẫn chi tiết cách giặt vali tại nhà

Các bước giặt vali Dưới đây là các bước giặt vali đơn giản, nhanh chóng mà bạn có thể thực hiện ngay tại nhà. Cùng tham khảo…

Trẻ bị cảm nắng liệu có nên tắm nắng hay không?

Có nên tắm nắng cho bé khi bị cháy nắng? #say nắng là gì? Say nắng hay còn gọi là say nắng. Đây là hiện tượng thường…

6 cách bảo quản rau trong tủ lạnh tươi lâu không thể bỏ qua

#1 Không rửa rau củ trước khi cho vào tủ lạnh Không nên rửa rau củ trước khi bảo quản trong tủ lạnh. Đây là nguyên tắc…

Bạn đã sử dụng nước rửa bình sữa cho trẻ đúng cách?

Bước 1: Vệ sinh bình ngay sau khi sử dụng Vệ sinh bình sữa cho bé bằng nước sạch ngay sau khi sử dụng. Bạn có thể…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *