Bài thơ Vội Vàng được trích từ tập “Thơ thơ” của tác giả Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện được phong cách sống mãnh liệt, hết mình, không bỏ lỡ mất một giây phút nào. Đặc biệt là con người vào những thời điểm còn trẻ, khỏe, tràn đầy sức sống. Xuân Diệu luôn mang một hồn thơ yêu đời, tận dụng hết mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Xuân Diệu được ví là ông hoàng thơ tình, luôn có những dòng thơ lãng mạn. Trong đó, khổ thơ thứ nhất và thứ 2 đã tôn vinh tình yêu nồng cháy, mãnh liệt, hết mình. Khi phân tích 10 câu cuối bài Vội Vàng, chúng ta trả lời được câu hỏi như thế nào là sống vội?
Trong đoạn thơ cuối bài Vội Vàng, 6 câu trên tác giả thúc đẩy mọi người bằng lối thơ rất tự nhiên:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Cụm từ “mau đi thôi” thể hiện giọng điệu, thái độ thúc giục tất cả chúng ta. Nhà thơ Xuân Diệu muốn nói rằng chúng ta vẫn còn thời gian để sống hết mình, yêu thương. Đặc biệt là bạn đang trong thời gian tuổi thanh xuân, sức trẻ nồng cháy. Tiếp theo là “mùa chưa ngả chiều hôm”, đừng nghĩ đến việc chia xa, hãy trân trọng tình yêu đang có.
Điệp từ “ta muốn” được nhắc đi nhắc lại 4 lần, khuyên chúng ta hãy luôn trân trọng tuổi trẻ. Có những điều chỉ có tuổi trẻ mới có năng lực làm, luôn biết yêu thiên nhiên, cuộc sống. Nhà thơ nhấn mạnh vào các động từ như: Ôm, riết, cắn, thâu, thể hiện sự tấn công mãnh liệt, sự khát khao vô cùng lớn về tình yêu. Các động từ này thể hiện hành động từ cấp độ thấp đến cao. Từ việc ban đầu là ôm ấp, tiếp theo là riết chặt, muốn hòa quyện vào nhau thì hãy cắn.
4 câu thơ cuối, Xuân Diệu gửi gắm ý nghĩa rằng hãy hòa mình cùng thiên nhiên tươi đẹp:
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Thông qua việc phân tích 10 câu cuối bài Vội Vàng, chúng ta hiểu kỹ hơn về tình yêu của nhà thơ. Tác giả sử dụng điệp từ “và” kết hợp với “non nước, cây, cỏ rạng” để miêu tả tổng thể cảnh quan thiên nhiên hoang dã. Tiếp theo là điệp từ “cho” một cách no nê, chếnh choáng, đã đầy, để dâng hiến hết thanh xuân cho thiên nhiên. Mùi hương thơm của thiên nhiên cây cỏ làm con người có cảm giác dễ chịu, thoải mái. Ánh sáng bao phủ khắp mọi nơi, soi đường chỉ lối cho chúng ta.
Bao quát của thiên nhiên vô cùng rộng lớn, tuy nhiên tác giả lại muốn ôm trọn trong vòng tay. Đây không phải là sự tham lam, mà là khát khao chiếm hữu trọn vẹn thiên nhiên. Từ 1 cá thể hòa chung với thiên nhiên rộng lớn. Từ những ham muốn riêng của bản thân, tác giả muốn được cống hiến, đóng góp với xã hội, đất trời. Cuối bài thơ tác giả viết “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi” rất mạnh mẽ và táo bạo.
Chúng ta có thể thấy cảm xúc của tác giả rất mãnh liệt, chi tiết đến từng hành động. Chứng tỏ rằng, nhà thơ đang yêu điên cuồng, nồng cháy, hết mình với khả năng. Xuân Diệu đưa cách sống của ông vào thơ, luôn vội vàng như tuổi trẻ. Chúng ta sống, làm việc và biết tận hưởng, luôn lạc quan, yêu đời. Mặt khác, chúng ta cũng cần phải đóng góp, dâng hiến và trân quý những việc làm tốt đẹp mà cuộc sống ban tặng.
Về hình thức nghệ thuật thì cực kỳ điêu luyện, cảm xúc và lý luận xen lẫn nhau. Bài thơ có sự sáng tạo, mới lạ về ngôn từ, phong cách viết với thể thơ tự do. Qua bài thơ, Xuân Diệu muốn nhắn nhủ rằng hãy luôn sống vội vàng, xứng đáng nhất.
Phân tích 10 câu cuối bài Vội Vàng, chúng ta không những được học hỏi lối thơ độc đáo. Qua đó, chúng ta còn thấy được tình yêu cuộc sống, thiên nhiên, con người mãnh liệt nhất. Sự thôi thúc mãnh liệt của tác giả, giúp chúng ta thấy được luôn cần phải sống hết mình.
Xuân Diệu chính là ông hoàng thơ tình yêu với rất nhiều bài thơ về tình yêu, con người, đất nước đặc sắc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Có rất nhiều nhà thơ viết về mùa xuân, nhưng có lẽ không có mùa xuân nào lại gấp gáp, vội vàng như mùa xuân của Xuân Diệu. Với những thi sĩ khác, mùa xuân là sự sống là hưởng thụ chồi non, là sống chậm, bình yên. Còn với Xuân Diệu mùa xuân vừa là sự sống nhưng lại trôi rất nhanh, nên phải vội vàng hưởng thụ, nếu không mùa xuân qua mau. Bài thơ Vội Vàng trích trong tập Thơ Thơ là bài thơ hay, lạ, độc đáo về cách nhìn nhận mùa xuân, con người, sự sống của tác giả. Đặc biệt trong khổ 3 bài thơ Vội Vàng, mùa xuân đến cũng chính là đang đi, do đó hãy tận hưởng, sống trọn vẹn từng giây phút như hôm nay chính là giây cuối cùng của cuộc đời. Khổ 3 cũng chứa đựng nhiều châm ngôn, triết lí của nhà thơ gửi gắm trong đó.
Mở đầu đoạn thơ là lời thúc giục gấp gáp “mau đi thôi” thể hiện sự vội vã.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Nếu ở khổ thơ thứ nhất tác giả sử dụng ngôi số 1 là Tôi, thì sang khổ thơ thứ 3 tác giả lại sử dụng đại từ nhân xưng “Ta”. Cách sử dụng chuyển ngôi mang một ý nghĩa sâu sắc đó chính là sự đồng điệu giữa các tâm hồn. Ta rộng hơn cái tôi rất nhiều. Ta là tất cả mọi người, hãy nhanh lên thôi, mỗi ngày trôi qua rất nhanh cần phải gấp gáp vội vàng để có thể tận hưởng những phút giây hạnh phúc của cuộc đời.
Lúc này đây, ta – muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Mùa xuân là thế, đó là mùa của sự hồi sinh và đâm chồi nảy lộc theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng. Cây cỏ, hoa lá vào mùa xuân đua nhau khoe sắc, tỏa hương, mọi sự trong mắt tác giả đều mơn mởn sự sống, tràn đầy tươi mới. Chính điều này khiến cho tác giả muốn ôm lấy tất cả, dù cho sự sống ấy vô cùng lớn lao nhưng ông vẫn muốn giữ cho riêng mình. Hay nói đúng hơn, ông đang muốn sống tận hưởng trọn vẹn từng giây phút của sự sống, của hạnh phúc của sự mơn mởn.
Sang tiếp 4 câu thơ sau, nhịp điệu thơ càng gấp gáp, dồn dập hơn thể hiện ước muốn mãnh liệt của tác giả:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Trong đoạn thơ này tác giả sử dụng nhiều động từ mạnh như “riết, say, thâu” thể hiện khao khát mãnh liệt về sự sống, về ước vọng sống trọn vẹn từng giây phút. Qua đây ta cũng cảm nhận được bức tranh thiên nhiên mùa xuân mới tươi đẹp, đầy sức sống làm sao. Đó là mây gió, là cánh bướm, là non nước, cỏ cây. Một bức tranh với đầy đủ cảnh vật mùa xuân và xen lẫn trong đó là tình yêu và những nụ hôn ngọt ngào. Bức tranh mùa xuân của Xuân diệu mới trọn vẹn làm sao, vừa có hơi thở của thiên nhiên mùa xuân, vừa có hơi thở của tình yêu. Mùa xuân và tình yêu là hai điều đẹp tuyệt vời mang lại cho con người ta cảm giác hạnh phúc lâng lâng.
Đặc biệt những câu thơ cuối càng khẳng định được những khát vọng và ước nguyện của ông về mùa xuân:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Vậy là những câu thơ cuối chính là kết quả của sự khát khao sống vội vàng ở trên. Mục đích cuối cùng là tác giả chỉ muốn tận hưởng cuộc sống chếnh choáng đến nô nê, đến mê say. Trước sự mơn mởn của mùa xuân, ông nhận ra rằng khi sống hết mình mới có thể thấy được cuộc đời này tươi đẹp làm sao. Nếu sống hết với đam mê mới biết rằng ta sống xứng đáng và không uổng phí từng giây phút nào. Nhất là khi ta có tuổi trẻ, ta đang tận hưởng những mùa xuân đẹp nhất của cuộc đời, vậy ta phải tận hưởng, phải sống hết mình để sống và tận hưởng cuộc sống như những giây phút cuối cuộc đời.
Khao khát mãnh liệt ấy khiến tác giả phải thốt lên rằng: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Từ Xuân hồng nghe rất thắm và mềm mại, đầy sự sống. Xuân hồng chính là mùa xuân, mùa xuân ở độ chín hồng, mang đậm khát vọng tuổi trẻ, khát khao sống mãnh liệt. Mùa xuân đẹp đến nỗi mà tác giả chỉ muốn cắn vào, hay chính xác hơn là muốn đắm chìm vào sự ngọt ngào ấy. Tác giả chỉ muốn đắm mình vào tận hưởng những giây phút hạnh phúc tuyệt vời của xuân hồng.
Qua phân tích khổ 3 bài thơ vội vàng chúng ta càng hiểu phần nào khát khao của tác giả. Qua đây, chúng ta càng trân quý hơn cuộc sống, trân quý thời gian. Thời gian trôi qua rất nhanh mỗi mùa xuân cũng qua rất nhanh, hãy sống trọn vẹn từng giây phút nhất có thể. Đoạn thơ vô cùng độc đáo với những ý thơ mạnh mẽ đầy khát vọng, thể hiện rõ tâm tình của tác giả muốn gửi gắm đến mọi người.
Xuân Diệu là nhà thơ trữ tình nổi tiếng của Việt Nam. Từ nhỏ, ông đã được nuôi dưỡng tâm hồn qua những điệu hò lý, câu hát ví dặm. Những yếu tố này đã tác động khiến cho hồn thơ và ngôn từ của ông mượt mà hơn. Chưa dừng lại ở đó, ông còn chịu ảnh hưởng của nền văn học cổ điển, hiện đại của Phương Tây. Tất cả những điều này đã khiến cho thơ của Xuân Diệu mang nét riêng đặc trưng không trộn lẫn.
Ông được nhiều độc giả biết đến với rất nhiều tập thơ hay. Trong đó, Vội Vàng chính là tác phẩm nổi bật được in trong tập Thơ Thơ vào năm 1938. Đây là tập thơ đầu thể hiện phong cách và tư tưởng của Xuân Diệu một cách rõ ràng. Chỉ với hai chữ “vội vàng” nhưng đã thể hiện rõ hết những châm ngôn, triết lý mà ông muốn gửi gắm.
Mở đầu đoạn cuối là lời thúc giục “mau đi thôi” để thể hiện sự vội vã. Trong khi mùa chưa ngả chiều hôm thì hãy tranh thủ tận hưởng, làm việc để có thể cảm nhận sự sống trọn vẹn.
Ở đoạn thơ đầu, tác giả xưng “Tôi” thì đến đoạn cuối ông lại dùng “Ta”. Đây không chỉ là cách sử dụng mang ý nghĩa ẩn dụ mà còn tạo nên sự độc đáo cho đoạn thơ. tác giả muốn dùng từ ta để tìm kiếm sự đồng cảm cùng với mọi người. Qua cách nhìn của Xuân Diệu, sự sống có tính chất đó là sự mơn mởn, tràn đầy tươi mới. Chính cái sự mơn mởn ấy đã khiến tác giả nảy sinh ước mong muốn ôm hết tất cả. Mặc dù biết sự sông ấy rộng lớn, bao la thế nhưng ông vẫn muốn giữ chặt lấy cho riêng mình.
4 câu thơ tiếp theo với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập thể hiện mong ước mãnh liệt hơn.
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Người thi sĩ muốn được hòa cùng với sự sống của thiên nhiên. Những hình ảnh như mây đưa, gió lượn, cỏ cây, non nước đã góp phần mang đến bức tranh tuyệt đẹp. Thông qua đó, chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được bức tranh hùng vĩ mà tạo hóa ban cho. Mức độ giao cảm được thể hiện rõ ràng hơn qua các từ “ôm”, “riết”, “say”. Tất cả ước nguyện còn được thể hiện rõ ràng hơn qua hai từ “tôi muốn”. Điệp từ này lặp lại ở hầu hết các câu thơ như lời thúc giục gấp gáp. Có chăng, Xuân Diệu đang muốn ôm cả sự sống vào mình. Như vậy mới là sống trọn vẹn với cuộc đời.
Những câu thơ đầu của đoạn cuối đã phần nào thể hiện được châm ngôn, ước nguyện của tác giả. Thế nhưng, chúng ta chẳng thể nào hiểu được vì sao ông lại có lối suy nghĩ ấy. Những câu thơ tiếp theo sẽ phần nào lý giải được khao khát của Xuân Diệu.
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Thực tế, Xuân Diệu chỉ muốn tận hưởng cuộc sống đến chếnh choáng, đến no nê. Trước sự mơn mởn ấy, ông nhận ra rằng chỉ khi sống hết mình mới biết được cuộc đời đẹp thế nào. Chỉ khi ta hòa mình hết vào những gì tươi đẹp mới không cảm thấy uổng phí tuổi trẻ. Mỗi lần thể hiện khát khao của ông lại mạnh mẽ hơn với mục đích gửi gắm tâm tình đến mọi người.
Khao khát mãnh liệt ấy đã khiến tác giả phải thốt lên rằng “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Từ Xuân Hồng nghe rất đằm thắm và mềm mại. Nó không chỉ khiến cho mùa Xuân trở nên tươi mới mà còn có hồn và sức sống hơn. Mùa xuân đẹp đến nỗi khiến cho chúng ta muốn cắn vào để say đắm trong sự ngọt ngào.
Phân tích khổ cuối bài Vội Vàng, chúng ta đã phần nào hiểu rõ hơn về khát khao của tác giả. Qua đó, mỗi người sẽ cảm nhận và thêm trân quý sự sống. Mỗi phút giây trôi qua đừng nên bỏ phí mà hãy sống vội vàng hơn để tận hưởng hết những điều tươi đẹp. Với ngôn từ độc đáo cùng với các diễn tả đầy mới mẽ, đoạn thơ đã để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc.
Phân tích khổ cuối trong bài thơ Vội vàng – mẫu 9
Đến với thế giới thi ca là đến với thế giới của muôn vàn cảm xúc. Ta từng biết đến một Thế Lữ “rộng mở”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”. Và thật thiếu sót khi nhắc đến đỉnh cao Thơ mới khi ta quên mất cái tên Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Theo Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh). Ông đã thổi vào nền văn học đương đại một luồng gió mới đầy độc đáo, mới lạ và mang đầy tính nhân văn. Và một trong những vần thơ thể hiện rõ nhất quan niệm ấy là khổ cuối bài “Vội vàng”.
Xuân Diệu quê ở Hà Tĩnh “cha đàng ngoài, mẹ đàng trong”. Cha ông là ông đồ Nghệ dạy học ở Bình Định, mẹ là cô gái lao động làm nước mắm quê ở Gò Bồi (Bình Định). Những câu hát ví dặm quê cha, điệu hò lý quê mẹ nuôi dưỡng hồn thơ Xuân Diệu cùng với đó là biển xanh cát trắng Quy Nhơn với cơn gió nồm nam mát rươi tạo nên một hồn thơ say đắm với chất giọng mượt mà. Ông là một trí thức Tây học, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường nên con người ông có sự kết hợp giữa cổ điển – hiện đại. Tư tưởng chi phối toàn bộ sự nghiệp thơ Xuân Diệu là niềm khao khát giao cảm với đời nhưng ông vẫn muốn cái tôi được khẳng định chói lọi. Thoát khỏi hệ thống ước lệ của thơ cũ, Xuân Diệu nhìn đời bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn để phát hiện ra vẻ đẹp cuộc đời mà ít ai để ý tới. Và “Vội vàng” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất.
“Vội vàng” in trong tập “Thơ thơ” (1938) gồm bốn mươi lăm bài sáng tác từ năm 1933 đến 1938, là tập thơ đầu thể hiện rõ tư tưởng và phong cách thơ Xuân Diệu trước Cách mạng. “Thơ thơ” được xem là đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Hai chữ “Vội vàng” chứa đựng cả một tâm thế sống: Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận mọi vẻ đẹp của cuộc đời trần thế vừa chứa đựng triết lý sống: Cuộc đời con người là hữu hạn, vì vậy cần sống tích cực, đủ đầy và ý nghĩa, chạy đua với thời gian để không phải tiếc nuối điều gì.
Nếu ở đoạn thơ đầu, tác giả xưng tôi nhằm thể hiện bản lĩnh cá nhân và đối thoại với đồng loại thì đến khổ cuối, nhà thơ xưng ta để đối diện với sự sống, để tìm sự đồng điệu, đồng cảm cùng cái ta cộng đồng, khát khao chiếm giữ sự sống trọn vẹn, đủ đầy:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Câu thơ “Ta muốn ôm” thắt lại giữa bài khiến ta liên tưởng đến vòng tay của thi nhân ôm giữ cuống quýt cả sự sống non tơ. Không giống như người bạn thân Huy Cận lấy cảm hứng từ những không gian rộng lớn, bị ám ảnh bởi “sầu không gian” thì Xuân Diệu luôn ám ảnh bởi thời gian trôi chảy không ngừng. Với thời gian, nếu Chế Lan Viên chối bỏ mùa xuân hiện tại để quay về quá khứ “Làm cánh chim thu lạc cuối ngàn” thì Xuân Diệu say sưa, gắn bó với mùa xuân, với cuộc đời bằng cách thâu tóm mọi sự sống nhân gian. Ông theo đuổi hạnh phúc bằng lối sống cuống quýt, vội vàng để tận hưởng mọi vẻ đẹp của đất trời.
Trước thiên nhiên bao la rộng lớn, Xuân Diệu như mở rộng tầm mắt của mình để thâu tóm. Sau bao đau đớn, tuyệt vọng về sự hữu hạn của đời người, về sự trôi chảy tuyến tính của thời gian đất trời, những câu thơ tiếp nối nhau như để góp phần làm bùng cháy lên một khát vọng mãnh liệt:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Điệp ngữ “Ta muốn” lặp lại năm lần, mỗi lần lại tha thiết, mạnh mẽ hơn tạo âm hưởng dồn dập, khẩn thiết trở thành cao trào của khát vọng sống. Các động từ phát triển theo cấp độ từ thấp đến cao như ôm, riết, thâu, cắn nhằm thể hiện một cảm xúc ngày càng mãnh liệt. Hồn thơ Xuân Diệu như cánh buồm giương to, căng phồng nhịp tình sống. Ta cảm giác nhà thơ không chỉ giục giã mà còn hăm hở lao vào, ôm ghì sự sống để tận hưởng sắc hương và mật ngọt của đời. Bổ ngữ cho hệ thống động từ là một loạt những hình ảnh mây đưa, gió lượn, cánh bướm, non nước, cây cỏ. Phép liệt kê khiến bức tranh hiện lên có hình dáng, màu sắc. Mùa xuân như đôi môi người thiếu nữ trẻ trung, tràn đầy năng lượng sống và thi sĩ muốn dành nụ hôn để thâu tóm non nước, cỏ cây. Liên từ “và” lặp lại ba lần trong một câu thơ nhằm nhấn mạnh cảm xúc dâng trào mãnh liệt trong trái tim yêu đời của thi sĩ. Phân tích khổ cuối bài thơ “Vội vàng”, ta có thể cảm nhận được rằng mọi khung cảnh của thiên nhiên đều được nhìn qua lăng kính của một trái tim yêu vì thế cảnh vật không hề u buồn như “Gió theo lối gió, mây đường mây” của Hàn Mặc Tử mà rạo rực, duyên dáng giữa đất trời. Cho dù đã tận hưởng, tận hiến đầy vòng tay nhưng vẫn không ngừng bởi đã tận hưởng thì phải lên tới tột đỉnh:
Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Điệp từ “cho” lặp lại ba lần kết hợp với biện pháp liệt kê nhằm diễn cả sự ham sống, muốn tận hưởng thiên nhiên một cách cao nhất, mãnh liệt nhất. Thời tươi đó với ông là khoảng thời gian của tình yêu và tuổi trẻ. Không thể tắt nắng, buộc gió, không thể can dự vào quy luật tất yếu của tạo hóa cũng như kéo dài tuổi xuân của mỗi đời người, cái duy nhất ta có thể chọn là một lối sống cho mình. Sống tận hưởng, tận hiến để không phí hoài thời gian, ôm trọn mọi khoảnh khắc của đời người. Tất cả như tròn đầy trong tâm hồn thi nhân, tràn ra từng câu chữ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Nghệ thuật làm thơ khó nhất là ở câu cuối vì nó vừa phải nâng cao cảm xúc vừa chứng tỏ sự vận động của tứ thơ đạt tới độ hoàn hảo không thể thêm bớt. Xuân Diệu đã vượt qua được ranh giới đó khi bật lên tiếng thơ chân thành, đầy khao khát. Ta từng biết “Mùa xuân chín” trong thơ Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” trong thơ Nguyễn Bính nay ta bắt gặp trái xuân hồng trong thơ Xuân Diệu. Nó như một trái quả ngọt lành mà thi sĩ muốn cắn ngập răng để tận hưởng. Với câu thơ này, một nhà phê bình đã tinh tế nhận ra rằng: “Xuân Diệu giống như một con ong hút nhụy đã no nê đang lao đao bay đi”. Đây quả là sự giao cảm táo bạo, mãnh liệt của một trái tim căng tràn tình yêu, sức sống.
Một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế không chỉ gợi được sức sống mà còn gợi được cả cháy khao rực cháy hối hả cuốn quýt trong tâm hồn thi nhân. Nếu trong thi ca trung đại, thiên nhiên là tiêu chí đánh giá cho mọi vẻ đẹp của cuộc đời, là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ thì Xuân Diệu lại đưa ra tiêu chí mới, giàu tính nhân văn sâu sắc. Con người hồng hào, tươi trẻ giữa tuổi trẻ và tình yêu mới là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên thế gian. Mùa xuân như đôi môi ửng hồng của người thiếu nữ, tràn đầy sự trinh nguyên và một chút rạo rực của tình yêu.
“Vội vàng” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu, toàn bộ bài thơ nói chung và khổ cuối nói riêng là một khúc ca say đắm yêu đời của một trái tim trẻ trung, sôi nổi; của cặp mắt xanh non, biếc rờn; ở sự bày tỏ khát vọng chân thành, thiết tha. Với sự kết hợp giữa việc sử dụng ngôn từ tăng theo cấp bậc tăng tiến và hình ảnh thơ đa sắc màu, lời thơ nhẹ nhàng, say đắm, “Vội vàng” đã đi vào trong lòng người đọc và để lại nhiều dư ba về một lối sống tích cực, khát khao giao cảm với đời.
Phân tích khổ cuối trong bài thơ Vội vàng – mẫu 10
Mỗi nhà thơ đều có một cảm hứng riêng cho mình. Ở Huy Cận là cảm hứng về không gian với những “sầu không gian”, “nhớ không gian”, còn Xuân Diệu lại là cảm hứng về thời gian. Thời gian chi phối tất cả nhịp điệu của đất trời và cuộc sống con người. Xuân Diệu là người yêu cuộc sống đến đắm say, cuồng nhiệt, nhưng éo le thay lại “Không được dài thời trẻ của nhân gian” để mà yêu. Cho nên, thi nhân muốn níu giữ lấy thời gian để tận hưởng. Song có ai níu giữ được thời gian bao giờ. Nên tâm hồn trẻ ấy sợ thời gian và đuổi theo thời gian một cách “cuống quýt”, “vội vàng” để hưởng thụ cho hết mọi vẻ đẹp hạnh phúc của trần gian.
Bài thơ “Vội vàng”, in trong tập “Thơ thơ” (1938), đã thể hiện nhân sinh quan mới và tiến bộ ấy. Đây là phần kết thúc của bài thơ Vội vàng nói lên khát vọng tận hưởng:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Thời gian cứ lạnh lùng, tàn nhẫn mang theo mọi vẻ đẹp của cỏ cây, hoa lá lẫn với tiếng chim trời cùng tuổi trẻ ra đi để cho lòng tiếc nuối. Xuân Diệu như muốn dang tay ra ôm lấy tất cả:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Đang từ những câu thơ 8 chữ, bỗng rút ngắn lại với câu thơ 3 chữ – câu ngắn nhất trong toàn bài thơ, làm cho giọng thơ đanh lại, rắn chắc như một mệnh lệnh đòi hỏi hiện thực hóa những khát vọng. “Ta” ở đây là “cái tôi” đầy kiêu hãnh của thi nhân, đồng thời cũng là cái tôi của mỗi con người chúng ta. Bởi ai mà chẳng có nỗi niềm khát khao như khao khát của thi nhân. Mỗi người đọc hãy cảm nhận lấy khát vọng của mình trong cái “ta” ấy. Ai mà chẳng muốn ôm giữ lấy những vẻ đẹp non tươi của cuộc sống đang diễn ra quanh mình: từ cái mơn mởn của một nụ hoa xuân hoặc một nụ đời và tất cả những sự sống đang bắt đầu hé nhú, để nó khỏi trôi đi, song dù có ôm chặt được tất cả, nhưng chắc gì đã giữ được cho trọn vẹn. Vì vậy cần phải “riết” cho chặt hơn nữa:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Nghĩa là “riết” cho chặt cả những thứ không thể ôm. Mây đưa và gió lượn là những vẻ đẹp lớn lao của tạo vật nhưng đồng thời cũng là hình ảnh biểu trưng đó thôi. “Ôm” rồi “riết”, dù có chặt đến mấy đi nữa thì vẫn chỉ ở bên ngoài nên còn đòi hỏi phải “say” cho đến tận hồn:
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Cho dù say đến mấy đi nữa thì vẫn còn là mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Nên cần phải “thâu tóm” mọi vẻ đẹp kia về phía mình”:
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
“Cái hôn nhiều” ở đây, muốn nói về độ dài của thời gian. “Cái hôn” không phải là mục đích mà chỉ là một phương tiện để thu hút lấy tất cả mọi hương sắc. Mọi thần khí, thần hồn về phía mình cho thỏa mãn.
Những điệp ý “ta muốn” kết hợp với hành động ngày càng tăng: “ôm, riết, say thâu” đã thể hiện được lòng ham muốn đến cuồng nhiệt của thi nhân. Con người như muốn trải lòng ra với tất cả muôn cảnh, muôn lòng. Khi là sự sống non tươi, khi là mây đưa gió lượn, khi là cánh bướm tình yêu, khi là non nước, cỏ cây, hoa lá rực lên trong ánh sáng. Cho dù có đầy vòng tay, đầy hồn khát mà vẫn chẳng ngừng: Bởi đã tận hưởng thì phải tới tột đỉnh:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
“Chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” là những từ biểu thị sự hưởng thụ đến mức tối đa. Ấy thế mà xem chừng vẫn còn chưa hả. Cuối cùng còn đòi hỏi cao hơn nữa:
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
“Xuân hồng” là mùa xuân đương độ với hoa lá măng tơ đầy hương sắc. “Xuân hồng” cũng có thể là hình ảnh biểu trưng cho tuổi trẻ và cũng có thể là một dáng xuân đời. “Cắn vào ngươi”, tưởng như thô thiển mà lại đầy chất thơ. Đó chỉ là cách nói về sự hưởng thụ cả tinh thần lẫn vật chất đến mức cuồng nhiệt. Đến với hoa xuân đừng đứng ở bên ngoài, xin hãy vào giữa vườn xuân cho hương sắc tràn đầy mọi giác quan của ta. Với tuổi trẻ cũng vậy, xin đừng chỉ nhìn ngắm gương mặt tuổi trẻ của chính mình ở trong gương mà hãy biến nó thành sức mạnh, thành giá trị vật chất để làm cho đời thêm ý nghĩa.
Đây cũng không chỉ là ham muốn hưởng thụ mà còn là nỗi buồn, là sự hoảng hốt trước sự ra đi của mọi vẻ “xuân hồng”. Vì vậy mà cuống quít, phải “cắn” để giữ lấy, không để cho nó rơi đi và trôi đi. Phải “cắn” để giữ lấy thời gian, tuổi trẻ, đừng để cho nhanh về cái bến già nua tuổi tác.
Đặc biệt trong tình yêu lứa đôi, con người luôn luôn có khát vọng đi tìm sự hòa đồng đến vô biên, tuyệt đích giữa hai cá thể, cả về tâm hồn lẫn thể chất. “Cắn vào ngươi” là đòi hỏi được hóa thân trong tình yêu,
Nhìn chung lại, đây là nhân sinh quan mới, có nét tích cực. Trong khi những cái tôi lãng mạn khác lại xa lánh cuộc sống trần gian, đi tìm cõi bồng lai ở chốn hư vô, thì Xuân Diệu không đi đâu cả mà coi trần gian chính là thiên đường và sống hết mình trong cõi trần gian ấy. Hãy biết hướng đời mình về phía ánh sáng, đừng để cho tuổi xanh trôi đi một cách uổng phí. Bởi “tuổi xanh … trở về” song nếu chỉ biết tận hưởng một cách vội vàng, cuống quýt mà không biết làm gì để cho sự tận hưởng ấy thì lại là tiêu cực.
Về nghệ thuật, nét nổi bật ở khổ thơ này là cách dùng một loạt động từ và tính từ ngày càng mạnh, càng tăng, tạo nên một giọng điệu liên hoàn, sôi nổi như khát vọng mãi không thôi.
Phân tích khổ cuối trong bài thơ Vội vàng – mẫu 11
Mỗi nhà thơ đều lấy cho mình những dư vị để làm chất riêng cho chất thơ của mình. Nếu Huy Cận là say mê bất tận với cảnh sắc và không gian, Xuân Quỳnh là những rạo rực đắm chìm trong tình yêu thì khi đến với Xuân Diệu ta lại thấy được sự hưng phấn, cuồng si tột độ với những khoảnh khắc lí thú chảy trôi của thời gian. Nỗi niềm ấy được bộc lộ rõ nét qua lời thơ Vội vàng, và đặc biệt qua khổ thơ cuối:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Guồng chảy của thời gian cứ thế chảy trôi, cuốn đi những thanh sắc tươi đẹp của cỏ cây đất trời. Vì yêu vì đắm say mà hơn ai hết Xuân Diệu cảm nhận xiết bao từng khoảnh khắc quý giá ấy để rồi bâng khuâng:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Những câu thơ 8 chữ bỗng ngắt lại nhường chỗ cho câu thơ 3 chữ. Giọng thơ trở lên dục dã, rạo rực như chính nỗi lòng thiết tha của nhà thơ. Danh từ xưng hô Tôi đến đây đã chuyển sang ta, ta vừa là cái tôi thi nhân vừa chỉ cái ta chung của tất cả mọi người. Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta chung cộng đồng nói lên khát vọng, hoài bão lớn lao. Cuộc đời người mấy ai chả mong được sống mãi với tuổi trẻ căng tràn, mơn mởn như nụ xuân mới nhú; ai chả ước ao được níu giữ mãi tuổi xuân nồng nàn, đời xanh hừng hực đam mê cháy. Song nào đâu cứ ôm là được cứ giữ là trọn vẹn nên ta cần phải “riết” để níu giữ gần hơn nữa:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn”
Ôm là chưa đủ để níu giữ bước chân chuyển dịch thời gian mà chúng ta phải siết chặt cái đáng giá vào lòng. Mây đưa gió lượn là sự chuyển dịch tuần hoàn của thời gian, là thứ hữu hình, lớn lao thế nhưng nhà thơ lại muốn riết chặt vào tim. Phải chăng nhà thơ muốn ôm cho kì hết những gì của thiên nhiên đất trời vào trong lòng. Và rồi ôm rồi riết thôi vẫn chỉ là những biểu hiện bên ngoài nhà thơ còn muốn cả tâm hồn mình ngự trị:
“Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,”
Bướm và tình yêu là biểu trưng cho sự ngọt ngào, nồng cháy, lãng mạn. Xuân Diệu khao khát biết mấy được đắm say trong ly rượu dịu nhẹ, nồng nàn của tình yêu đất trời. Nhưng dù say đến mấy thì vẫn là sự tồn tại độc lập giữa 2 chủ thể chỉ cho đến câu thơ tiếp theo người và cảnh mới thực sự quấn quýt, hòa điệu cùng nhau:
“Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cỏ cây và cỏ rạng”
Không chỉ là cảm giác, xúc giác nhà thơ dùng cả vị giác để lột tả hết cái đam mê tột độ của mình. Nhà thơ dùng “cái hôn nhiều” để thưởng thức cảnh vật để thu vào lòng hết hương vị của cỏ cây, hơi thở của núi sông, vạn vật.
Nhưng với một tâm hồn đầy thi vị và nhạy cảm như Xuân Diệu thì điều đó đâu là đủ để thỏa mãn ông. Đã tận hưởng thì phải tận hưởng cho kì hết, cho thỏa cái thú vui lãng mạn. Bởi thế mà suy nghĩ cũng biến thành ý thơ:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Tình cảm của nhà thơ đến đây đã dâng lên đến tột độ. Xuân Diệu như muốn ôm, muốn riết cho hết và muốn say muốn thâu với tạo hóa để được cảm nhận những dư vị ngọt ngào, để được ánh sáng và thanh sắc đời xuân tắm mát. Tâm hồn nhà thơ như được tắm táp hả hê, thỏa thê, trọn vẹn, sung mãn với âm thanh, mùi vị, ánh sáng, hương vị rạo rực đất trời.
Trong niềm hưng phấn tột độ ấy, nhà thơ bất chợt buông một dấu chấm lửng:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
Nhà thơ nhận ra mùa xuân, tuổi trẻ giống như một trái chín đỏ mọng, căng tràn, quyến rũ , ngọt ngào, và đầy hấp dẫn khiến nhà thơ không nén nổi lòng mình mà thẳng thắn mạnh bạo, khao khát được “ cắn”. Càng say mê quấn quýt với thiên nhiên Xuân Diệu lại càng sợ thiên nhiên biến mất và càng sợ mất lại càng mãnh liệt được làm chủ, níu giữ vĩnh cửu.
Với cách sử dụng ý thơ theo cấp độ tăng tiến, sử dụng từ ngữ mạnh bạo, giàu sức gợi sức tả kết hợp với nhịp điệu hồ hởi, vồ vập, giục giã đoạn thơ đã diễn tả quan niệm nhân sinh tiến bộ và mới mẻ của Xuân Diệu. Với ông thiên nhiên đẹp nhất vào mùa xuân cũng giống như đời người đẹp nhất là tuổi trẻ, tuổi trẻ được tô vẽ với tình yêu mãnh liệt. Con người sống là phải biết trân trọng từng giây phút đáng giá được sống đừng để đến khi chực trào mất đi mới thấy quý báu, thấy hối tiếc và đớn đau. Nhịp tim và nỗi lòng trăn trở của tác giả đã được gửi gắm vào từng câu từng chữ và từng ý trong bài thơ, trở thành quan niệm sống có ý nghĩa và sức lan tỏa lâu bền.
Phân tích khổ cuối trong bài thơ Vội vàng – mẫu 12
Xuân Diệu là cái tên không hề xa lạ trong văn đàn Việt Nam. Ông được mệnh danh là ” nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của ông mang màu sắc tươi mới, tràn trề sức sống và chứa đựng khát khao mãnh liệt được tận hưởng cuộc đời. Tình yêu cái đẹp và yêu cuộc sống của ông được thể hiện vô cùng sâu sắc qua trong bài thơ “Vội vàng”. Đặc biệt là khổ thơ thứ ba của tác phẩm với khát vọng tận hưởng mãnh liệt.
Hồn thơ Xuân Diệu cực kỳ nhạy cảm với những bước đi của thời gian. Bởi thời gian một đi sẽ không trở lại nên trong suy nghĩ của Với Xuân Diệu, khoảng thời gian đẹp đẽ và đáng sống nhất là tuổi trẻ với đam mê và tình yêu say đắm. Tuổi trẻ tràn trề sức sống và rực cháy những hoài bão, sống và cống hiến hết mình. Tuổi trẻ đẹp nhưng ngắn ngủi và trôi mau. Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu luôn sống vội vàng, có phần gấp gáp và luôn yêu say đắm.
Nếu ở những khổ thơ trước, Xuân Diệu giãi bày tâm sự về tình yêu mãnh liệt và nỗi nuối tiếc chia lìa thì đến đây, nhà thơ đưa ra câu trả lời cho châm ngôn sống vội, sống tận hưởng của mình:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm “
Cụm từ “mau đi thôi” vang lên như một lời thúc giục. Tác giả nhận ra vẫn còn kịp để yêu và sống trọn vẹn tuổi xuân, với những gì đẹp đẽ nhất. “mùa chưa ngả chiều hôm” tức là xuân vẫn còn đó, giọng điệu nồng nhiệt, thiết tha theo cảm xúc ấy cũng vui tươi trở lại. Dấu chấm than đặt giữa câu càng nhấn mạnh thêm cảm xúc hối hả đang trào dâng trong lòng người thi sĩ.
Xuân Diệu vẫn ý thức được thời gian đang chảy trôi không ngừng, tuổi trẻ chưa hết nhưng chắc chắn nó sẽ biến mất. Phải khẩn trương và nhanh hơn nếu không muốn bản thân rơi phải hối hận khi thời gian qua đi. Đây là quan niệm sống vô cùng mới mẻ, thể hiện khát khao muốn sống và tận hưởng hết mình của con người. Nhà thơ vội vàng muốn sống, muốn chiến thắng cả dòng chảy của thời gian.
Tất cả những dồn nén và khát khao cùng đánh thức những ham muốn tột cùng của người thi sĩ.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống đang bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng “
Cụm từ “ta muốn” được nhắc lại nhiều lần liên tiếp khiến nhịp thơ bỗng nhanh hơn, dồn dập hơn. Nó thể hiện khát khao mãnh liệt của nhà thơ, muốn ôm trọn vào lòng vẻ đẹp của thiên nhiên, ôm cả vũ trụ, cả mùa xuân của đất trời. “Tôi” đến đây đã chuyển hóa thành “ta”. Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta chung cộng đồng. Khát khao cháy bỏng kia không phải của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Nó thôi thúc, gịuc giã những ai đang mang trong mình sức sống của tuổi trẻ.
Với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao là thiên nhiên giữa thời tươi, là sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Sự vội vàng đến đây ngày càng trở nên rõ ràng. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”.
Nhà thơ muốn ôm sự sống bắt đầu chớm nở. Siết chặt vào lòng để níu giữ bước chân chuyển dịch thời gian “mây đưa gió lượn”. Đắm say trong sự ngọt ngào, nồng cháy của tình yêu đất trời “cánh bướm với tình yêu”.
Đặc biệt, nhà thơ muốn dùng cả vị giác để lột tả hết khát khao tột độ của mình. “Thâu trong những xái hôn nhiều” để thưởng thức trọn vẹn hương vị và hơi thở của thiên nhiên, của vạn vật. Tất cả cùng truyền cho người đọc dòng cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một tâm hồn say tình đắm đuối.
Xuân Diệu muốn tận hưởng mọi thứ:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi “
Điệp từ “cho” liên tiếp kết hợp với tính từ “no nê, chếnh choáng, đã đầy” không chỉ thể hiện cảm xúc cuồng nhiệt, mãnh liệt mà còn khẳng định tâm thế của người luôn sẵn sàng hòa mình vào thiên nhiên, cuộc sống. Sự cộng hưởng của điệp từ “và” tạo hình ảnh rộng lớn, bao quát như khao khát muốn ôm trọn tất cả của nhà thơ.
Lời yêu cháy bỏng đã không thể kìm nén mà vang lên đầy tha thiết:
“- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
Động từ “cắn” ở câu thơ cuối đồng thời khép lại bài thơ chính là điểm nhấn ấn tượng nhất của cả bài. Xúc giác, khứu giác hay vị giác cũng không đủ để tận hưởng. Nhà thơ muốn dùng hành động táo bạo mạnh mẽ hơn để chiếm hữu tối đa vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc đời. Nhà thơ muốn chạm vào nhiều hơn, muốn nuốt trọn hương sắc của đất trời không cho nó biến mất.
Có thể nói, với cách sử dụng ý thơ theo cấp độ tăng tiến. Cách sử dụng từ ngữ mạnh bạo, giàu sức gợi kết hợp với nhịp thơ biến hóa vui tươi, vồ vập, giục giã. Đoạn thơ thứ 3 trong bài thơ “Vội Vàng” đã diễn tả chân thực quan niệm nhân sinh tiến bộ và mới mẻ của Xuân Diệu. Không chỉ bộc lộ cái tôi khát khao mãnh liệt sống, tận hưởng. Nhà thơ còn muốn gửi gắm tới mọi người thông điệp nhân sinh ý nghĩa. Sống phải biết trân trọng thời gian, sống phải biết tận hưởng, yêu hết mình và cũng phải hiến dâng hết mình.
Với những giá trị đó, đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Vội vàng” nói chung đã thể hiện thái độ sống vô cùng tích cực. Đồng thời giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn Xuân Diệu, một hồn thơ yêu đời, giàu xúc cảm và có nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời.
Phân tích khổ cuối trong bài thơ Vội vàng – mẫu 13
Thơ Mới vẫn luôn được xem là sự nổi loạn bằng thơ phá vỡ đi những quan niệm truyền thống về nhân sinh và nghệ thuật. Các nhà Thơ Mới đã khước từ mọi khuôn mẫu truyền thống, từ hình ảnh ước lệ chuyển sang hình ảnh của đời thường, từ nhịp thơ bị bó buộc trong luật thơ chuyển sang sự tự do trong nhịp điệu, từ việc sử dụng từ ngữ kiểu cách chuyển sang ngôn ngữ bình dị. Nhưng cốt lõi cho những thay đổi ấy chính là để bộc lộ cái nhu cầu được thành thực với bản thân mình, thành thực với nỗi lòng mình với cả thế hệ mình. Và Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất của phong trào Thơ Mới” cũng không nằm ngoài điều ấy. Xuân Diệu đã lý giải và gửi gắm nỗi niềm ấy trong bài thơ Vội vàng, đặc biệt là khổ cuối của bài thơ.
Nếu ở hai khổ đầu đó là sự phát hiện về bức tranh thiên đường nơi trần thế và sự vỡ lẽ về quy luật của thời gian, thì ở khổ thơ cuối tuyên ngôn ấy đã được hiện thực hóa bằng hành động. Đó là sự vội vàng, sự mãnh liệt của một khát khao nồng cháy
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng”
Bài thơ mở đầu bằng khúc hát “tôi muốn” thì giờ đây khúc hát ấy lại chuyển thành “ta muốn”. Nhịp thơ vang lên như tiếng lòng của nhà thơ đầy giục giã. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn ngữ đan chéo vào nhau của điệp khúc “ta muốn”. Câu thơ “Ta muốn ôm” chỉ có ba chữ nhưng lại được đặt ở vị trí đặc biệt – giữa dòng thơ. Khi phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng, ta thấy dường như đó chính là hình ảnh một cái tôi đầy tham vọng đứng giữa trời đất dang rộng vòng tay để ôm hết mọi thanh sắc của cuộc đời. Từ cái tôi đã trở thành cái ta. Đây dường như là một lời khẳng định bản thân mạnh mẽ mãnh liệt
“Ta là một là riêng là thứ nhất
Không có chi bè bạn nỗi cùng ta”
(Hy Mã Lạp sơn – Xuân Diệu)
Trước thiên nhiên vũ trụ rộng lớn bao la, thi nhân dường như cũng mở rộng chiều kích của mình để có thể thâu tóm Sau bao đớn đau, tuyệt vọng trong ý thức thức về sự hữu hạn của đời người, của tuổi xuân, câu thơ như thu vén lại những ước mơ để đúng lúc bùng lên mãnh liệt. Ước muốn ấy vẫn vẹn nguyên nhưng ở những dòng này ước muốn ấy được cụ thể hóa. Khi phân tích khổ thơ cuối bài vội vàng, ta nhận thấy đó không còn những khát khao trái ngược với quy luật của tự nhiên mà là những ước muốn “riết mây đưa và gió lượn”, “say cánh bướm với tình yêu”, “thâu trong một cái hôn nhiều”.
Điệp ngữ “ta muốn” được lặp lại với mật độ dày đặc, mỗi lần lặp lại là một lần trạng thái mạnh mẽ hơn. Đó là hình ảnh một con người với tầm vóc lớn lao đang đứng giữa cõi trần mở rộng vòng tay để ôm trọn những cảnh sắc quyến rũ của cuộc đời. Tư thế lớn lao và tâm thế khát khao ấy chính là hình tượng của chủ thể trữ tình và mạch cảm xúc chủ đạo. Phân tích khổ thơ cuối bài vội vàng, ta nhận ra đó là cái tôi ham sống, ham hưởng thụ và khát khao hưởng thụ trọn vẹn. Các động từ mạnh được sử dụng như “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”.
Tác giả muốn ôm nhưng không phải là một sự sống riêng lẻ mà là cả một sự thâu tóm, ôm trọn chiếm lĩnh đến tham lam không muốn bỏ sót bất kỳ hương sắc nào của cuộc đời. Niềm khát khao hướng đến cuộc sống trong trạng thái mới nhất, non tơ nhất và tràn đầy sự sống. “Mây đưa”, “gió lượn” vốn chuyển động khó nắm bắt nhưng trong cái nhìn của Xuân Diệu, ông cũng muốn thau hết cả gió mây vào tâm hồn mình.
Không chỉ tận hưởng thiên nhiên mà Xuân Diệu còn muốn tận hưởng cả tình yêu. Đời người đẹp nhất là tuổi trẻ mà tuổi trẻ đẹp nhất đáng nhớ nhất là tình yêu. Chính vì lẽ đó là tình yêu luôn trở thành một nỗi niềm day dứt của Xuân Diệu
“Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng”
(Xa cách – Xuân Diệu)
Từ tình yêu tha thiết để rồi tất cả tổng kết trong “một cái hôn nhiều” của tình yêu. Đó không đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà hiểu rộng ra đó là tình yêu của cuộc sống. Mà cái hôn là biểu hiện cao nhất gắn kết nhất của tình yêu.
Trong dòng thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”, từ “và” được lặp lại ba lần có vẻ như dư thừa. Nhưng thực chất đây chính là một dụng ý nghệ thuật của thi nhân. Nhà thơ như đang liệt kê, không muốn bỏ sót thanh sắc nào của cuộc sống. Đó là một giọng điệu tươi vui sôi nổi, mang đậm sắc thái riêng của Xuân Diệu, cho thấy cái nguồn sống ấy đang trào dâng mãnh liệt không ngừng.
Phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng để thấy những khát khao ấy xuất phát từ một trái tim nhiệt thành trước cuộc đời. Tác giả muốn ôm hết mọi thứ bởi
“Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Điệp từ “cho” kết hợp với phép liệt kê cho thấy rõ mục đích của những khát khao mãnh liệt ấy. Hương đã đầy tràn ngập khắp không gian, ánh sáng cũng phủ đầy trời đất, thanh sắc cũng đã hiện lên rực rỡ. Với Xuân Diệu, thời gian không được phân định thành bốn mùa xuân – hạ – thu – đông mà dường như chỉ được phân định thành hai mùa. Đó là mùa của thời tươi và của thời không tươi.
Thời tươi đó với ông là khoảng thời gian rạo rực của tình yêu và tuổi trẻ. Mất đi tình yêu, mất đi tuổi trẻ thì mọi thứ cũng trở nên vô nghĩa. Ta không thể tắt nắng hay buộc gió, không thể can dự vào quy luật của tạo hóa, không thể cất giữ mãi hương sắc cuộc đời, cũng không thể kéo dài quỹ thời gian hạn hẹp của đời người. Phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng để thấy đó là những cảm xúc thẩm mỹ của một trái tim yêu đời, khát khao sống đến tột cùng của thi nhân.
Trong nhiều điều không thể ấy, điều duy nhất ta có thể là tự lựa chọn cách sống cho mình. Phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng để thấy nhà thơ đã lựa chọn cho mình cách sống vội vàng, sống tận hưởng và tận hiến. Nhà thơ giục giã mọi người phải nhanh lên phải vội vàng lên không phải để chạy đua với cuộc sống xô bồ mà vội vàng để tận hưởng hương sắc. Đó là lý do mà Xuân Diệu không thoát lên tiên như Thế Lữ
“Dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân;
Ánh tưng bừng linh hoạt nắng trời xuân;
Vẻ sầu muộn âm thầm ngày mưa gió;
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ”
(Cây đàn muôn điệu – Thế Lữ)
Hay tiếc nuối khung cảnh quá khứ như Chế Lan Viên
“Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!”
(Xuân – Chế Lan Viên)
Mà Xuân Diệu hòa nhập vào cuộc đời
“Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”
(Thanh niên – Xuân Diệu)
Mọi thứ như đã tràn đầy trong tâm hồn thi nhân, để rồi cuối cùng thốt lên thành một lời yêu cháy bỏng:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Câu thơ mang tính khái quát về sự sống, nhà thơ bày ra trước mắt một bức tranh cuộc đời tuyệt đẹp tuyệt mỹ. Trong bức tranh ấy, cảnh vật phong phú biến đổi vô cùng. Khi đầy biến ảo vô hình như mây gió, khi lại cụ thể hữu hình với cây cỏ. Nếu trong thơ Hàn Mặc Tử đó là một mùa xuân chín đầy huyền ảo mơ hồ
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
– “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
(Mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử)
Thì Xuân Diệu lại tìm đến mùa “xuân hồng” rực rỡ tươi đẹp của đất trời. Xuân Diệu đã biến cái vô hình của mùa xuân thành cái hữu hình mang đầy tính hình thể – đôi môi. Mùa xuân ấy không chỉ là mùa xuân mang tính phân định của thời gian bốn mùa mà trở thành “xuân hồng” tươi thắm, ngọt ngào đầy quyến rũ.
Dưới ngòi bút của thi nhân, trong cặp mắt “xanh non, biếc rờn”, thiên nhiên hiện lên rõ rệt đầy sức sống. Màu xuân như đôi môi, ửng hồng như đôi má người thiếu nữ đang độ xuân thì, tràn đầy nhựa sống trinh nguyên mang một chút rạo rực hơi thở của tình yêu. Mùa xuân như một người tình đầy quyến rũ của thi nhân. Vì thế đã dẫn đến một khát khao tạo bạo nhưng không kém phần đáng yêu duyên dáng của một tâm hồn non trẻ – “muốn cắn vào ngươi”.
Một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế không chỉ gợi được sức sống mà còn gợi được cả cháy khao rực cháy hối hả cuốn quýt trong tâm hồn thi nhân. Con người đã trở thành chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người. Đây là cả một sự đổi mới không chỉ về thi pháp mà cả về quan niệm nhân sinh. Con người vươn lên, giải phóng mọi cảm xúc, bức khỏi mọi giới hạn. Nỗi niềm ấy vì vậy được thể hiện trong thơ ca chân thật nhất, tựa như tiếng nói của tâm hồn. Phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng, người đọc nhận thấy đây là một điều rất mới mẻ trong thơ của Xuân Diệu nói riêng và trong phong trào Thơ Mới nói riêng.
Phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng, ta thấy Xuân Diệu đã sử dụng một hệ thống hình ảnh, từ ngữ phong phú với nhiều động từ và tính từ mạnh được kết hợp hiệu quả để nhấn mạnh sắc thái tận hưởng cuộc sống tươi vui. Hệ thống điệp từ, điệp ngữ được sử dụng theo cấp độ tăng tiến đã tạo nhịp điệu cuốn quýt dồn dập nhanh chóng muốn thâu tóm cả sự sống vô biên trong tầm tay.
Mạch thơ có sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và mạch luân lý. Xuân Diệu không thể hiện quan điểm triết học một cách khô khan mà thể hiện nó bằng những lời thơ nhẹ nhàng say đắm. Với Xuân Diệu, sống vội vàng là phải sống bằng tất cả cường độ mãnh liệt, sống hết mình để tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn và hạnh phúc nhất. Bài thơ đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cao cả của Xuân Diệu. Phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng nói riêng hay toàn tứ thơ nói chung để thấy tác phẩm này là tiêu biểu cho ý thức cá nhân vừa đậm chất thơ mới vừa đậm chất Xuân Diệu – rạo rực, say đắm, thiết tha.
Toàn bộ bài thơ là một khúc ca say đắm yêu đời mà khúc cả nổi bật nhất, say đắm nhất chính là khúc cuối. Khúc ca vừa rạo rực vừa đằm thắm. Đoạn cuối như một khúc vĩ thanh kết lại bài thơ. Chính vì vậy, tứ thơ tuy đã kết thúc nhưng vẫn để lại dư ba trong lòng người đọc về một trái tim yêu đời, một triết lý sống độc đáo mà Vội vàng là một trong những nét đặc biệt ấy. Những tưởng vội vàng là một lối sống tiêu cực nhưng càng đi sâu vào tìm hiểu ta thấy đó là một khát khao giao cảm với đời.
Phân tích khổ cuối trong bài thơ Vội vàng – mẫu 14
Xuân Diệu người được mệnh danh là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1941, cùng với hai người bạn khác là Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử. Nếu như Nguyễn Bính thường thiết tha với những bức tranh quê giản dị đơn sơ, với những vần thơ “quê mùa”, còn Hàn Mặc Tử bận rộn với những vần thơ kỳ dị, điên cuồng, có lúc đớn đau như nhỏ máu thì Xuân Diệu lại mang đến cho độc giả những cảm nhận hoàn toàn khác biệt. Đó là một hồn thơ rất đỗi nồng nàn, đắm say và tha thiết với cuộc sống, với tình yêu vô ngần, người bộc lộ cái “tôi” của mình một cách mạnh mẽ bằng nhiều hình thức. Từ tình yêu với thiên nhiên, với mùa xuân hay nỗi khát khao với tuổi trẻ người ta đều nhìn ra một cái gì đó rất đằm thắm, sôi nổi và trẻ trung, kể cả lúc ông mới 20, hay khi đã độ 40 tuổi đời. Vội vàng có thể xem là đỉnh cao, là bài thơ xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu và cũng là tác phẩm đáng chú ý nhất trong một giai đoạn thơ Mới kéo dài gần 10 năm. Đặc biệt ở 9 câu thơ cuối chính là kết quả của sự nhận thức về những triết lý về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu và cả quy luật tuần hoàn của thời gian tạo hóa. Tất cả đã trở thành lời giục giã, ý niệm hành động cổ vũ từng con người hãy sống và tận hưởng khi còn có thể.
Ngay sau khi phát hiện ra những quy luật lạnh lùng và tàn nhẫn của thời gian, của tạo hóa “Không cho dài thời trẻ của nhân gian”, Xuân Diệu đã lập tức đưa ra cho bản thân cũng như độc giả những giải pháp để tận hưởng cuộc đời trong 9 câu thơ cuối bài.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Sự trôi chảy và vận động hối hả không ngừng nghỉ của cuộc sống là nỗi đau lớn nhất của đời của Xuân Diệu, bởi đối với một con người khao khát và tiếc nuối mùa xuân khi nó còn chưa tàn thì sự lụi tàn, tan biến của mùa xuân cũng như tuổi trẻ chính là điều mà người thi sĩ khó có thể chấp nhận. Tuy nhiên một người yêu đời và ham sống như Xuân Diệu cũng chẳng bao giờ chịu bất lực trước trái ngang của tạo hóa, người đã cố gắng tìm cho mình một giải pháp để chiến thắng được cái dòng chảy lạnh lùng của thời gian. Nếu như trong phần mở đầu bài thơ Xuân Diệu chọn cách liều lĩnh, táo bạo chặn đứng bước đi của thời bằng việc “tắt nắng”, “buộc gió” để lưu giữ lại những phần hương sắc tuyệt vời của mùa xuân. Tuy nhiên cái “tôi” ngông cuồng đó của tác giả đã không đủ khả thi để ngăn chặn bước đi đầy quyền năng của tạo hóa, đặc biệt là sau những nhận thức về triết lý nhân sinh cũng như quy luật của thời gian thì Xuân Diệu đã có những sáng tạo mới, giải pháp mới.
Trong 9 câu thơ cuối bài tác giả đã tinh tế trong việc thay đổi đại từ xưng hô từ “tôi” sang “ta”, đây cũng là một cách chuyển đổi khá quen thuộc trong nhiều bài thơ Việt Nam hiện đại, thể hiện sự nhận thức của tác giả về việc chuyển từ cái “tôi” cá nhân ích kỷ sang hòa hợp được với cái “ta” chung, cái mong muốn của nhiều người, của cộng đồng xung quanh mình. Mong muốn của của Xuân Diệu đã trở thành mong muốn của tất cả mọi người, và đó là một mang muốn có tính khả thi, mà mỗi chúng ta đều có thể có nhu cầu muốn thực hiện nó. Bên cạnh đó để bộc lộ khao khát, mong muốn của mình Xuân Diệu đã sử dụng một loạt các động từ mạnh như “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” theo cấp độ tăng tiến dần nhằm diễn tả khát khao được tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời bằng tất cả những giác quan mà mình có, đây là một giải pháp rất tích cực và những động từ mạnh được nêu trên chính là sự cụ thể hóa của giải pháp tích cực ấy. Một cái ôm trọn nhẹ nhàng, đến một cái ôm thật chặt chẽ, rồi đến sự hòa quyện, say mê trong việc “say”, “thâu”, cuối cùng là được tận hưởng trọn vẹn tất cả những gì hữu hình và vô hình của sự sống thông qua một ngụm “cắn” mạnh mẽ, giòn tan. Có thể nói thông qua những động từ thú vị này, Xuân Diệu muốn nhắn nhủ với độc giả rằng thay vì chỉ sống một cuộc đời duy nhất thì ta hãy hành động, hãy sống thật nhiệt tình gấp hai ba lần như thế, hãy căng mở tất cả các giác quan mà lâu nay ta vẫn nghĩ nó chỉ có thể làm những nhiệm vụ thông thường để tận hưởng một cách tràn trề, sung sướng cái mùa xuân tuyệt vời đang lan tràn ngoài kia.
Và Xuân Diệu không chỉ chọn ra cho chúng ta những động từ mạnh mẽ, bộc lộ niềm khao khát thúc giục, mà ở sau mỗi động từ ấy tác giả còn sắp thêm những bổ ngữ vô cùng đặc sắc, tựa như một bàn tiệc đầy đủ cao lương, mỹ vị tuyệt vời của cuộc sống. Người muốn ôm “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, muốn “riết”chặt lấy những mây đưa và gió lượn đầy tự do, hương sắc, lại cũng muốn say sưa trong những cánh bướm dập dờn, trong sự ngọt ngào của tình yêu đôi lứa. Và khi có tình yêu rồi thi sĩ bất chợt muốn có nhiều hơn muốn thâu tóm trọn vẹn vào lòng bàn tay, vào tâm khảm bằng một cái “hôn nhiều” nồng nàn, say đắm, và cuối cùng chỉ một cái hôn làm sao cho đủ. Xuân Diệu đứng trước sự căng tràn sức sống của mùa xuân, người cũng kìm lòng không đặng mà “cắn” lấy một ngụm, để hoàn toàn được thưởng thức cái vị “ngon” hiếm có của thế gian này. Và khi đứng trước bàn tiệc cuộc đời với đủ món mỹ vị từ mùa xuân, từ tình yêu Xuân Diệu cũng lại giống như một kẻ “quê mùa” bỗng trở nên bối rối “Ta chỉ là một cây kim bé nhỏ/Mà vạn vật là muôn đá nam châm”, tất cả đều có sức hút vô cùng mãnh liệt với thi nhân, không biết phải hướng vào đâu để tận hưởng cho hết sự tuyệt vời đang buổi sung túc ấy.
Bên cạnh đó điểm đặc sắc của đoạn thơ này còn nằm ở việc tác giả sử dụng nhiều các liên từ “và”, “cho” chỉ trong ba ý thơ “Và non nước và cây và cỏ rạng/Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/Cho no nê thanh sắc của thời tươi”. Nếu như trong thơ trung đại thì đây là một điều tối kỵ trong thi ca, tuy nhiên đối với Xuân Diệu thì đó lại là một sự cố ý có nghĩa vô cùng. Việc lặp các liên từ đem đến cho độc giả một cảm nhận về sự đa dạng, phong phú, dồi dào của bàn tiệc mùa xuân, của cuộc đời, mang đến cảm giác đầy ăm ắp, nhiều không sao tả xiết, khiến bản thân Xuân Diệu phải liên tục gọi tên mà vẫn không thể kể hết. Một loạt các tính từ láy “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” lại diễn tả sự thỏa mãn tột cùng khi tác giả căng mở hết tất cả các giác quan để đón nhận vẻ đẹp của cuộc đời. Mà đôi lúc người ta có thể tượng tượng ra Xuân Diệu như một chú ong “tham lam” đang say sưa, ngây ngất, lảo đảo trong chính vườn hoa đậm thanh, đậm sắc mang tên cuộc đời này.
Cuối cùng sau tất cả những mong muốn mạnh mẽ, nồng nhiệt của mình Xuân Diệu đã chốt bài thơ bằng câu “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!”. Tất cả những vẻ đẹp của mùa xuân đã được tác giả gói lại bằng một lời gọi thật nồng nàn, cháy bỏng “hỡi xuân hồng”, ở đâu mùa xuân đã không còn là một cái gì đó trừu tượng nữa mà nó trở thành một thực thể có màu sắc, có hình dạng, tựa như một người bạn mà tác giả cất tiếng gọi. Sự tinh tế trong việc chuyển đổi cảm giác từ mùa xuân vô hình sang “xuân hồng” hữu hình, tựa như một trái đào chín mọng nước, thôi thúc tác giả có khát khao, có xúc động muốn cắn vào cho thỏa tấm lòng mong ước.
Tóm lại 9 câu thơ cuối bài đó chính là sự thể hiện giải pháp tận hưởng những vẻ đẹp tuyệt vời của mùa xuân cuộc đời – một giải pháp rất tích cực và sáng tạo trong thơ ca. Hơn ai hết Xuân Diệu hiểu rõ rằng bản thân mình không thể chặn đứng bước đi của thời gian, của tạo hóa để mưu cầu lấy vẻ đẹp của mùa xuân mãi mãi trong ánh nắng, trong hơi gió. Chính vì thế người đã cố gắng tìm ra một giải pháp khác có tính khả thi hơn đó chính là nỗ lực sống và tận hưởng gấp nhiều lần cuộc đời vốn cả, căng mở, thức nhọn hết tất cả các giác quan và tâm hồn để tận hưởng bữa tiệc thịnh soạn do tạo hóa ban tặng.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Xuân Diệu (1916 – 1985), còn có bút danh là Thảo Tra, tên thật là Ngô Xuân Diệu.
– Ông thân sinh của Xuân Diệu là một nhà nho, quê ở làng Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
– Ông lớn lên ở Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự lực văn đoàn.
– Xuân Diệu tham gia mặt trận Việt Minh trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hăng say hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.
– Ông là Ủy viên của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức.
2. Tác phẩm
1. Xuất xứ
– “Vội vàng” được trích từ tập Thơ thơ (1938) – tập thơ đầu tay của nhà thơ Xuân Diệu.
– Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống cuồng nhiệt.
2. Bố cục
– Phần 1 (câu 1 đến câu 29): lí do phải sống vội vàng
– Phần 2 (còn lại): biểu hiện của cách sống vội vàng
3. Phương thức biểu đạt
– Biểu cảm
4. Thể thơ
– Thơ tự do
5. Giá trị nội dung
– Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt
6. Giá trị nghệ thuật
– Hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, gọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ