Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu. Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về văn bản Thương con ong, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức chuẩn bị cho kỳ thi. sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Viết đoạn văn bày tỏ cảm nghĩ của em về văn bản “Thương con ong”
Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về văn bản “Thương con ong” – mẫu 1
Văn bản “Yêu những con ong” Cuốn sách của Huy Cận đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và gợi nhiều suy nghĩ cho mỗi người về những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống. Dưới lời kể nhẹ nhàng, chân chất của nhân vật, những chú ong vô tri xuất hiện với tất cả tâm hồn và vẻ đẹp mà chúng mang lại cho cuộc sống của nhân vật “tôi”. Với cậu bé, những chú ong ấy không chỉ mang lại mật mà còn tạo nên những kỉ niệm tuổi thơ khiến nhân vật vừa thích thú vừa bùi ngùi khi bay đi. Qua đó, nhà văn nêu lên triết lý, những vật vô tri, nhỏ bé lại vướng mắc, ám ảnh trong tâm hồn, ảnh hưởng đến thơ ca, nghệ thuật của mỗi người. Cuộc sống của chúng ta có biết bao điều nhỏ nhặt, tầm thường mà chúng ta không để ý, để ý đến. Đọc văn Huy Cận, rồi nhìn lại cuộc sống quanh ta, ta thấy cái gì cũng có một sứ mệnh, một linh hồn riêng. Và từ đó, ta tự nhủ rằng cần phải biết yêu thương, nâng niu, trân trọng những điều bé nhỏ xung quanh mình, bởi chúng đều có những nỗi niềm riêng.
Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
– Huy Cận (1919 – 2006) tên đầy đủ là Cù Huy Cận.
– Quê quán: xã An Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình nhà Nho nghèo.
– Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê, sau ra Huế học phổ thông và đỗ tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học Cao đẳng Nông nghiệp. Thời đại học, ông sống cùng Xuân Diệu trên phố Hàng Than.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Huy Cận giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng.
– Từ năm 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII. Tháng 6 năm 2001, ông được bầu làm chủ tịch Viện hàn lâm thơ ca thế giới.
– Phong cách nghệ thuật cô đọng, khúc triết – đại diện xuất sắc cho phong trào thơ mới có hồn não nùng. Có thể thấy, sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.
– Công việc chính: Lửa thần (thơ, 1940); vũ trụ ca (thơ, 1942); kinh điển (văn xuôi, 1942); Quốc tịch trong nghệ thuật (nghiên cứu, 1958); Bầu trời tươi sáng mỗi ngày (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); bài thơ cuộc đời (thơ, 1963); Hai bàn tay của tôi (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Miêu nữ (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng gặp nhau (thơ, 1973); Chiến trường gần chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, người vợ (thơ, 1974); Cuộc sống hàng ngày, thơ hàng ngày (thơ, 1975); Chúa tể của núi Chúa tể của biển cả (thơ, 1976); ngôi nhà trong ánh mặt trời (thơ, 1978); Lại gieo hạt (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách văn hóa ở nước CHXHCN Việt Nam (viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Paris, 1985); Hợp tuyển (thơ, 1986); nước triều đông (thơ, song ngữ, xuất bản tại Paris, 1994); hồi ký đôi (1997).
– Phần thưởng:
+ Huy Cận được Nhà nước tặng thưởng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1 – 1996).
+ Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm thơ thế giới.
+ Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao vàng.
2. Tác phẩm
1. Thể loại: Hồi ký chủ yếu kể lại những sự kiện mà nhà văn đã tham dự hoặc chứng kiến trong quá khứ được sắp xếp theo trình tự thời gian, gắn với một hoặc nhiều thời kỳ của tác giả.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
– Được lấy từ “Trại” tổ ong trong tập 1 Tuổi trẻ và tình bạn hồi ký Đôi Hồi Ký sáng tác năm 1997.
3. Phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm.
4. người kể chuyện: Ngôi thứ nhất – Huy Cận.
5. Tóm tắt:
– Từ ngày chú mất, bố và chú nhân vật tôi chỉ nuôi vài đàn ong. Nhân vật mình yêu thích vô cùng, xem đến cháy cả mắt mà vẫn không chịu dừng. Buồn nhất là khi đàn ong đôi ba lần rời tổ. Khi đó, khi chú của nhân vật tôi ở nhà, chú còn hô hào cả khu phố ném đất để lũ ong mệt mỏi quay về. Một hôm ra đồng, nhân vật tôi một mình không biết làm gì ngoài việc nhìn đàn ong bay đi. Nỗi buồn ấy khiến anh cảm thấy một phần tâm hồn mình đã không còn.
6. Bố cục (2 phần):
– Phần 1 (Từ đầu đến cuối … xuống ruộng cày tra): Gia đình nhân vật tôi làm nghề nuôi ong
– Phần 2 (Còn lại): Nhân vật tôi chứng kiến đàn ong bay đi
7. Giá trị nội dung:
– Đoạn trích thể hiện tình cảm yêu thương, say đắm của nhân vật tôi đối với đàn ong nhà mình nuôi. Và đó cũng chính là nỗi buồn cay đắng của nhân vật tôi khi nhìn bầy ong rời tổ mà không cách nào níu kéo chúng lại.
8. Giá trị nghệ thuật:
– Sự kết hợp giữa tự sự và kể lại bằng biểu cảm những cảm xúc, suy nghĩ làm cho hồi kí của Huy Cận giàu chất thơ, giàu sức truyền cảm, khiến người đọc vui buồn cùng nhân vật “tôi” trong tác phẩm.