Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Viết đoạn Từ văn bản Thương nhớ bầy ong, viết đoạn văn suy nghĩ về ý nghĩa của những điều nhỏ bé trong cuộc sống, giúp các em có thêm tư liệu tham khảo. ôn tập trong quá trình học tập, củng cố kiến thức cho kì thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Từ văn bản “Thương bầy ong”, hãy viết đoạn văn suy nghĩ về ý nghĩa của những điều nhỏ bé trong cuộc sống.
Từ văn bản “Thương bầy ong”, hãy viết đoạn văn suy nghĩ về ý nghĩa của những điều nhỏ bé trong cuộc sống. – mẫu 1
Trong cuộc sống, có những điều nhỏ bé nhưng ý nghĩa mà đôi khi người ta vô tình quên mất. Quả thực, những điều nhỏ bé, giản dị nhưng chan chứa tình người và lòng nhân ái trong đó đều đáng quý biết bao. Trong gia đình, con cháu rót nước cho ông bà, vỗ lưng cha mẹ, nhặt vở đánh rơi cho em,… Ở trường học, học sinh đối xử tử tế, thân thiện với học sinh khác. Hay như ngoài xã hội, người ta dễ dàng bỏ qua, xóa bỏ cho nhau những va chạm nhỏ nhặt; dễ dàng mỉm cười với nhau để quên đi tất cả,… Và trong ngôi nhà thân yêu, mỗi cái cây trong vườn, mỗi con chó, con mèo hay viên gạch lát nền đều mang những tình cảm, niềm vui và ý nghĩa riêng. Người biết quý trọng, biết yêu thương và nâng niu từ những điều nhỏ nhặt nhất chính là người đang sống có ý nghĩa mỗi ngày. Trong khó khăn, thử thách, những điều nhỏ bé nhưng thiêng liêng, bé nhỏ ấy lại càng ý nghĩa hơn. Trong mùa dịch Covid-19 vừa qua, chắc hẳn chúng ta đã nghe rất nhiều câu chuyện cảm động về việc phát khẩu trang miễn phí, phát cơm miễn phí,… Sự ấm áp, nhân văn ấy góp phần tạo nên sức mạnh giúp cộng đồng vượt qua khó khăn, thử thách. Những việc nhỏ nhưng ý nghĩa lớn mang lại ý nghĩa lớn cho cộng đồng và mọi người xung quanh. Làm những việc nhỏ với tấm lòng chân thành là cách người ta sống ý nghĩa hơn bao giờ hết. Tóm lại, những điều nhỏ nhặt là những việc nhỏ nhưng chứa đầy tình yêu thương mà mỗi chúng ta nên làm để cuộc sống tốt đẹp hơn.
Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
– Huy Cận (1919 – 2006) tên đầy đủ là Cù Huy Cận.
– Quê quán: xã An Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình nhà Nho nghèo.
– Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê, sau ra Huế học phổ thông và đỗ tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học Cao đẳng Nông nghiệp. Thời đại học, ông sống cùng Xuân Diệu trên phố Hàng Than.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Huy Cận giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng.
– Từ năm 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII. Tháng 6 năm 2001, ông được bầu làm chủ tịch Viện hàn lâm thơ ca thế giới.
– Phong cách nghệ thuật cô đọng, khúc triết – đại diện xuất sắc cho phong trào thơ mới có hồn não nùng. Có thể thấy, sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.
– Công việc chính: Lửa thần (thơ, 1940); vũ trụ ca (thơ, 1942); kinh điển (văn xuôi, 1942); Quốc tịch trong nghệ thuật (nghiên cứu, 1958); Bầu trời tươi sáng mỗi ngày (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); bài thơ cuộc đời (thơ, 1963); Hai bàn tay của tôi (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Miêu nữ (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng gặp nhau (thơ, 1973); Chiến trường gần chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, người vợ (thơ, 1974); Cuộc sống hàng ngày, thơ hàng ngày (thơ, 1975); Chúa tể của núi Chúa tể của biển cả (thơ, 1976); ngôi nhà trong ánh mặt trời (thơ, 1978); Lại gieo hạt (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách văn hóa ở nước CHXHCN Việt Nam (viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Paris, 1985); Hợp tuyển (thơ, 1986); nước triều đông (thơ, song ngữ, xuất bản tại Paris, 1994); hồi ký đôi (1997).
– Phần thưởng:
+ Huy Cận được Nhà nước tặng thưởng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1 – 1996).
+ Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm thơ thế giới.
+ Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao vàng.
2. Tác phẩm
1. Thể loại: Hồi ký chủ yếu kể lại những sự kiện mà nhà văn đã tham dự hoặc chứng kiến trong quá khứ được sắp xếp theo trình tự thời gian, gắn với một hoặc nhiều thời kỳ của tác giả.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
– Được lấy từ “Trại” tổ ong trong tập 1 Tuổi trẻ và tình bạn hồi ký Đôi Hồi Ký sáng tác năm 1997.
3. Phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm.
4. người kể chuyện: Ngôi thứ nhất – Huy Cận.
5. Tóm tắt:
– Từ ngày chú mất, bố và chú nhân vật tôi chỉ nuôi vài đàn ong. Nhân vật mình yêu thích vô cùng, xem đến cháy cả mắt mà vẫn không chịu dừng. Buồn nhất là khi đàn ong đôi ba lần rời tổ. Lúc đó, khi chú của nhân vật tôi ở nhà, chú còn hô hào cả khu phố ném đất để lũ ong mệt mỏi quay về. Một hôm ra đồng, nhân vật tôi một mình không biết làm gì ngoài việc nhìn đàn ong bay đi. Nỗi buồn ấy khiến anh cảm thấy một phần tâm hồn mình đã không còn.
6. Bố cục (2 phần):
– Phần 1 (Từ đầu đến cuối … xuống ruộng cày tra): Gia đình nhân vật tôi làm nghề nuôi ong
– Phần 2 (Còn lại): Nhân vật tôi chứng kiến đàn ong bay đi
7. Giá trị nội dung:
– Đoạn trích thể hiện tình cảm yêu thương, say đắm của nhân vật tôi đối với đàn ong nhà mình nuôi. Và đó cũng chính là nỗi buồn cay đắng của nhân vật tôi khi nhìn bầy ong rời tổ mà không cách nào níu kéo chúng lại.
8. Giá trị nghệ thuật:
– Sự kết hợp giữa tự sự và biểu cảm kể lại những cảm xúc, suy nghĩ làm cho đoạn hồi ký của Huy Cận giàu chất thơ, truyền cảm, khiến người đọc vui buồn cùng nhân vật “tôi” trong tác phẩm.