Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu. Viết đoạn văn cảm nhận về hai câu cuối bài thơ “Hoa muống”: Hoa muống tím đu đưa Mười năm chốn xưa ta chưa hẹn ngày về… ?, giúp các em có thêm tư liệu tham khảo trong quá trình học tập củng cố kiến thức cho kì thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Viết đoạn văn cảm nghĩ về hai dòng cuối bài thơ “Hoa ban mai”: Rau muống tim tím đu đưa Mười năm chốn xưa em chưa hẹn ngày về…?
Viết đoạn văn cảm nghĩ về hai câu cuối bài thơ “Hoa ban mai”: Rau muống tim tím đu đưa Mười năm chốn cũ em chưa hẹn ngày về…? – mẫu 1
“rau muống” là bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu khi ông viết về làng quê, đất nước. hồn hậu, chân chất, giản dị, đầy bùn đất và mộc mạc như chính bản thân nhà thơ. Sau khi tái hiện bức tranh quê bình dị với những kỉ niệm chất chứa trong tiếng diều, tiếng chim của tuổi thơ, tác giả lắng đọng ở câu hỏi cuối bài:
Hoa muống tím đung đưa
Mười năm nơi xưa chưa hẹn ngày về…?
Hai câu thơ mang vẻ bâng khuâng, gợi lên những nỗi niềm chất chứa trong sâu thẳm trái tim nhà thơ. Một câu hỏi không có câu trả lời. Một câu hỏi đặt ra nhưng chỉ vang vọng nỗi buồn trong lòng người. “Em” ở đây có thể hiểu là người bạn tâm giao thuở còn thơ, cùng nhà thơ bắt chuồn chuồn, cùng nhà thơ chạy dưới cánh diều tuổi thơ và cùng con đò nhỏ qua bến bờ trưởng thành. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà người bạn cũ đã ra đi. Bây giờ nhìn lại, chỉ một mình nhà thơ đang nhớ lại những ngày xưa đẹp đẽ. Câu thơ vừa phảng phất sự nghiền ngẫm vừa thể hiện tình cảm thầm kín của tác giả đối với quê hương và đối với người bạn thơ ấu của mình. Đó là tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ.
Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Nguyễn Đức Mậu sinh năm 1948 tại Nam Ninh, Nam Hà. Các bút danh ông dùng là Hướng Hải Hưng, Hà Nam Ninh.
– Ông nhập ngũ năm 1966, chiến đấu trong đội hình Sư đoàn 312 ở chiến trường Lào.
– Sau chiến tranh, ông làm biên tập và vào Trường Văn khoa Nguyễn Du khóa I; rồi làm Trưởng ban Thơ, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Chủ tịch Hội đồng Thơ-Hội Nhà văn Việt Nam.
– Ông hiện đã nghỉ hưu với quân hàm Đại tá và sống cùng vợ con tại Hà Nội.
– Phong cách nghệ thuật: Nguyễn Đức Mậu thuộc lớp nhà thơ trưởng thành thời chống Mĩ. Với những sáng tác mang đậm dấu ấn riêng về chiến tranh với người lính và những kỷ niệm về quê hương một thời đánh giặc, Nguyễn Đức Mậu đã xác định được vị trí của mình trong lĩnh vực thơ ca, từ một người lính làm thơ trở thành một nhà thơ. Nhà thơ ăn mặc như một người lính.
– Công việc chính: Bài thơ của những người ra trận(thơ in chung – 1975), Cây xanh mệnh hỏa(thơ – 1973), trận Áo (thơ – 1976), Mưa trong rừng cháy (thơ – 1976), trường hợp xướng(thơ – 1980), Hoa đỏ bên sông (thơ – 1987), Từ mùa hè đến mùa thu (thơ – 1992), Bão và sau bão (thơ – 1994), Khu rừng đầy đom đóm bay (thơ – 1998),Đường rừng khó quên(truyện ngắn – 1984), Tướng và lính(tiểu thuyết – 1990),Chí Phèo mất tích (tiểu thuyết – 1993), Người đi tìm chân trời (Thơ thiếu nhi – 1982),Trong rừng Lào (Truyện ngắn thiếu nhi – 1984).
– Nguyễn Đức Mậu được giải nhất cuộc thi thơ báo chí văn nghệ 1972-1972 với chùm thơ Ghi trên chiến trường, Mắt, Đất; Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội 1981; Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng: Tập thơ Hoa đỏ bên sông1989; Giải Văn Học Chiến Tài – Hội Nhà Văn: Tập Thơ Từ mùa hè đến mùa thu1995; Giải thưởng Ủy ban Văn nghệ Quốc phòng và An ninh 1996: tập thơ Bão và sau bão.
2. Tác phẩm
1. Thể loại: Thể thơ lục bát gồm các cặp câu lục bát gồm một câu 6 tiếng và một câu 8 tiếng.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: trích xuất từ tập AlexandrineNxb Quân đội nhân dân, 2007.
3. Phương thức biểu đạt: Cảm xúc
4. Bố cục (2 phần):
– Phần 1 (Từ đầu đến cuối … càu nhàu ngày mưa): Hình ảnh thiên nhiên.
– Phần 2 (Còn lại): Cảm nghĩ khi nghĩ về tuổi thơ.
5. Giá trị nội dung:
– Đoạn thơ phác họa một khung cảnh thiên nhiên quen thuộc, gần gũi, sinh động đến với người đọc. Qua đó cho người đọc thấy được tình cảm chân thành và nỗi nhớ quê hương thời thơ ấu.
6. Giá trị nghệ thuật:
– Thể thơ lục bát, nhịp điệu linh hoạt, ngôn ngữ giản dị.
– Tin nhắn từ Có kết hợp với thủ pháp liệt kê hình ảnh ở hàng rào rau muống.