Tài liệu có nội dung chính của bài Tương tư ngữ văn lớp 11 gồm 2 trang với đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, người kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét cơ bản về ngôn ngữ. văn bản chính.
tương tự
Tìm hiểu chung về văn bản:
1. Bài Thơ Tương Tư
Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Mưa gió là bệnh của trời
Tình yêu là căn bệnh của tôi, tôi yêu cô ấy.
Hai làng chung một làng,
Sao bên đó không qua đây?
Ngày qua ngày, ngày qua ngày,
Những chiếc lá nhuộm màu xanh đã biến thành những chiếc lá vàng.
Đảm bảo rằng con đường trở lại thuyền,
Không có cách nào là không có cách nào để đi.
Nhưng đây là một khối đi,
Có bao xa cho tình yêu xa?
Mối quan hệ đã được lên trong một vài đêm,
Biết cho ai, hỏi ai biết!
Bao giờ bến gặp thuyền?
Hoa Khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Tôi có một giàn khoan phong phú ở nhà
Nhà tôi có một hàng cau ngăn giữa các phòng
Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Em ở thôn Đoài có nhớ giàu không?
2. Về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Một. Một chút tiểu sử
Nguyễn Bính (1918-1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bình (có khi tên là Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vinh, xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, mẹ sớm mồ côi, mới 10 tuổi đã phải theo anh ra Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ từ năm 13 tuổi và sớm bộc lộ năng khiếu sáng tác. Năm 1943, ông vào Nam và ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia hoạt động báo chí, văn nghệ.
Trong khi hầu hết các nhà thơ đương thời đều chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây thì Nguyễn Bính đã tìm thấy hồn thơ dân tộc và lôi cuốn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc nhưng đậm đà phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính mang đến cho người đọc những hình ảnh thân thương về quê hương, đất nước và tình người tha thiết, thiết tha. Vì vậy, Nguyễn Bính được coi là nhà thơ đồng quê và có nhiều tác phẩm được lưu truyền rộng rãi.
b. sự nghiệp văn chương
Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước (1940), Hương xưa (1941) Mười hai bến đò (1942), Cây đàn Pí bà (truyện thơ -1944); Sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Lấy vợ nước Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958), Đêm đầy sao (1962), Cô Sơn (chèo – 1961), Người lái đò Thăm sông Vị (oeing – 1962)…
2. Tác phẩm
Nguồn gốc – Hoàn cảnh ra đời
– Xuất phát từ tập Lỡ bước ngang (1940).
– Hoàn cảnh: Viết tại làng Hoàng Mai (quận Hoàng Mai, Hà Nội) năm 1939.
3. Bố cục
– Phần 1 (4 câu đầu): mở đầu cho tâm trạng tương tư
– Phần 2 (12 câu tiếp): nêu cảm nghĩ tương tự
– Phần 3 (còn lại) khao khát hạnh phúc vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa
4. Phương thức biểu đạt
– Cảm xúc
5. Thể thơ
– Sáu tám
6. Giá trị nội dung
– Đoạn thơ là tiếng nói của một tình yêu trong sáng, mãnh liệt.
– Thể hiện tình cảm chân thành, thấm đượm tâm hồn Việt Nam với nhiều nét đẹp văn hóa dân gian.
7. Giá trị nghệ thuật
– Thể thơ lục bát: đậm đà tính dân tộc, với cách diễn đạt thiết tha.
– Ngôn ngữ: giản dị, hồn nhiên, mộc mạc mà vẫn lãng mạn, thơ mộng.
– Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ độc đáo, sáng tạo.
– Hình ảnh sóng đôi: trầu – cau, bến – thuyền, hoa – bướm, thôn Đoài – Đông; khái niệm về tình yêu, sự gắn bó, lòng trung thành…
– Thể thơ dân gian: Bài thơ mang vẻ đẹp dân dã, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.